Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2013

Các lựa chọn của Toà án trước vụ kiện Trung Quốc

(Toquoc)- Vụ Philippines kiện Trung Quốc sẽ có tác động chính trị nghiêm trọng: Trung Quốc và Tòa trọng tài sẽ xử lý như thế nào?
Trong vụ khiếu kiện Trung Quốc liên quan vấn đề Biển Đông tại Tòa trọng tài quốc tế về Luật biển, Philippines muốn có một phán quyết trong đó có tuyên bố rằng yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc tại Biển Đông không phù họp với Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982 (UNCLOS) và do đó không có giá trị. Philippines yêu cầu Tòa phân xử tư cách pháp lý của một vài thực thể nhất định tại Biển Đông và các hoạt động chấp pháp của Trung Quốc đã đi ngược với UNCLOS.
Phán quyết của vụ kiện sẽ có tác động chính trị nghiêm trọng. Trung Quốc thì cay cú. Các trọng tài thì đứng trước một mớ bòng bong chính trị và pháp lý.
Trung Quốc có thể phản ứng như thế nào?
Philippines được đề nghị phải nộp đơn yêu cầu với bản khiếu nại đầy đủ trước ngày 30/3/2014. Nếu Trung Quốc từ chối đáp lại, sau đó phiên tòa sẽ tiếp tục thảo luận về cả thẩm quyền tòa án cũng như tính pháp lý của vụ kiện. Vụ kiện này có thể đi đến những phán quyết khác nhau và mỗi phán quyết lại có các hệ quả riêng.
Trung Quốc có thể “tuyên bố bãi ước” nghĩa là rút khỏi Công ước Luật Biển. Việc “tuyên bố bãi ước” sẽ có hiệu lực sau một năm đưa ra thông báo và Trung Quốc vẫn phải tuân thủ theo phán quyết của Tòa án trong vụ Philippines kiện họ. Điều này cũng gây thiệt hại cho Trung Quốc nhiều mặt.
Một giả thiết khác, Trung Quốc có thể thay đổi lập trường và tham gia vào vụ kiện hoặc chí ít là khiếu kiện về thẩm quyền của hội đồng trọng tài. Không cần quan tâm đến phán quyết cuối cùng, Trung Quốc có thể tìm cách đàm phán về một thỏa thuận có lợi hơn cho phía Philippines, trong đó có việc khai thác chung. Hiện tại Trung Quốc dường như đang cố gắng cô lập và thuyết phục Philippines từ bỏ vụ kiện, và đổi lại cho việc Philippines từ bỏ vụ kiện sẽ là một thỏa thuận khai thác chung tại Bãi Cỏ Rong. Điều này tuy rất khó nhưng vẫn có khả năng xảy ra, do theo thời gian, áp lực ngoại giao và các chi phí chính trị cũng như phí tổn kinh tế của Vụ kiện sẽ tăng dần. ASEAN trong trường hợp này có thể đóng vai trò trung gian.
Một giả thiết khác là Trung Quốc sẽ làm rõ yêu sách của họ bằng việc nói rằng đường chín đoạn chỉ thể hiện chủ quyền đối với các đảo và đá mà đường này bao quanh. Tiếp theo đó, Trung Quốc có thể nói rằng nước này yêu sách các vùng EEZ và thềm lục địa từ những thực thể trên và rằng đường biên giới giữa những gì nằm trong quyền tài phán của họ và của các quốc gia ven biển tại Đông Nam Á là đường trung tuyến giữa các đảo được xác định theo pháp luật và đất liền. Khu vực này cũng không khác nhiều so với khu vực được bao quanh bởi đường chín đoạn.
Hiện tại, việc Trung Quốc từ chối tham gia và không tuân thủ với phán quyết nhiều khả năng sẽ khiến danh tiếng và thẩm quyền của tòa án nói riêng và của luật pháp quốc tế nói chung bị suy giảm. Nhưng Trung Quốc cũng sẽ không được các nước khác tôn trọng.
Trọng tài có thể sẽ phán quyết như thế nào?
Có thể thấy, hội đồng trọng tài đang rơi vào thế “tiến thoái lưỡng nan”.
Đầu tiên hội đồng trọng tài phải quyết định xem họ có thẩm quyền tiếp nhận vụ kiện hay không và liệu khiếu nại có được dựa hoàn toàn trên thực tế và luật pháp hay không. Những người ủng hộ Trung Quốc cho rằng trong khiếu nại của Philippines có nhiều sai lệch trên thực tế và có nhiều vấn đề vượt ra ngoài quyền hạn của Tòa trọng tài; rằng Philippines đã không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đàm phán vấn đề trên bình diện song phương như đã được quy định trong DOC. Philippines phản bác rằng khiếu nại của họ nhằm mục đích cụ thể vào vấn đề diễn giải và áp dụng các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia theo như UNCLOS, và do đó khiếu nại không thể bị bác bỏ.
Nếu hội đồng trọng tài quyết định rằng họ không có thẩm quyền, những người theo chủ nghĩa hiện thực sẽ có lý do để phê phán rằng “luật pháp quốc tế là vũ khí của chính trị”, và rằng luật pháp quốc tế được định hình bởi các cường quốc và luôn thiên vị những nước này. Và như thế luật pháp quốc tế đã bị xem thường.
Còn nếu hội đồng trọng tài quyết định rằng họ có thẩm quyền và đưa ra phán quyết về yêu sách đường chín đoạn và nếu Trung Quốc không tuân thủ theo phán quyết, Biển Đông sẽ càng bất ổn chính trị và pháp lý.
Do đó, nhiều khả năng Tòa sẽ đưa ra một phán quyết có tính dung hòa. Họ có thể quyết định họ có quyền tài phán và sau đó đề xuất một phương án thỏa hiệp trong đó công nhận rằng Trung Quốc có “danh nghĩa lịch sử” đối với một phần nguồn tài nguyên tại khu vực tranh chấp, nhưng Bắc Kinh cũng phải nhân nhượng bằng cách công nhận phần tài nguyên của phía Philippines.
Trong khi đó, Trung Quốc và Philippines có thể xem xét một thỏa thuận chung “không sử dụng vũ lực”. Khi bước này được thực hiện, Trung Quốc và Philippines có thể thổi luồng sinh khí mới cho COC.
Trung Quốc vừa gây sức ép vừa có những biện pháp "dỗ dành" để Philippines tự rút đơn kiện. Có tin rằng Tập đoàn dầu khí Philippines Philex đang đàm phán với đối tác phía Trung Quốc là CNOOC về một khả năng khai thác chung, với sự nhượng bộ nhất định có lợi cho Philippines. Điều này chưa có gì là chắc chắn.
Trong chuyến thăm Đông Nam Á tháng trước, Thủ tướng Trung Quốc đề xuất việc ký kết “Điều ước hợp tác láng giềng hữu nghị giữa các nước ASEAN và Trung Quốc”. Nhưng nếu biển Đông Nam Á tiếp tục bất ổn định, an ninh trên biển không đảm bảo, Trung Quốc tiếp tục khủng bố ngư dân các nước, một điều ước như vậy có đáng để các nước Đông Nam Á xem xét không? Tất nhiên là không rồi vì nó quá vô lý. Trung Quốc đang rất cần Đông Nam Á không kém gì Đông Nam Á cần Trung Quốc./.
Lưu Việt
 

Mỹ, Nhật phản đối Trung Quốc lập khu vực phòng không

(Toquoc)- Nhật Bản cho rằng việc Trung Quốc lập khu vực phòng không trên biển Hoa Đông là một động thái "rất nguy hiểm". Mỹ tái khẳng định quần đảo Senkaku/Điếu Ngư thuộc phạm vi thực hiện của Hiệp ước quốc phòng song phương Mỹ - Nhật
Bộ Quốc phòng Trung Quốc ngày 23/11 công bố việc lập Khu vực Phòng không trên biển Hoa Đông, kèm theo các quy định áp dụng tại khu vực này.
Theo đó, tất cả các máy bay qua lại Khu vực Phòng không, gồm cả quần đảo Điếu Ngư, mà Nhật Bản gọi là Senkaku, phải thông báo trước kế hoạch bay; hồi đáp "lập tức với thái độ chừng mực" qua sóng radio khi nhận được các yêu cầu nhận dạng từ nhà chức trách Trung Quốc; giữ liên lạc trong suốt quá trình bay; máy bay phải gắn logo và cờ hiệu rõ ràng. Các quy định trên có hiệu lực từ 10h sáng ngày 23/11 và Trung Quốc sẽ "đưa ra các biện pháp phòng thủ khẩn cấp" nếu các máy bay bay qua khu vực trên không tuân thủ quy định.
Cùng trong ngày 23/11, Trung Quốc đã cho nhiều máy bay chiến đấu tuần tra ở khu vực phòng không rộng lớn trên biển Hoa Đông nằm giữa Hàn Quốc và Đài Loan.

Khu vực Trung Quốc tuyên bố thuộc "vùng phòng không" trên biển Hoa Đông (màu đỏ)
Mỹ, Nhật Bản ngay lập tức có những phản ứng mạnh mẽ với động thái trên.
Nhật Bản cho rằng việc Trung Quốc lập khu vực phòng không trên biển Hoa Đông là một động thái "rất nguy hiểm".
Phát biểu với báo giới, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera cho biết: “Trung Quốc bất ngờ thông báo lập Khu vực Phòng không trên biển Hoa Đông. Tôi cho rằng, việc này có thể dẫn đến những tình huống hết sức nguy hiểm”. Ông Onodera cho rằng Chính phủ Nhật Bản cần có hành động để phản ứng vì có nhiều chuyến bay dân sự bay qua khu vực này.
Bộ Ngoại giao Nhật Bản dự kiến triệu Đại sứ Trung Quốc Trình Vĩnh Hoa trong ngày 25/11 để bày tỏ lập trưởng của Nhật Bản về vấn đề trên.
Trong khi đó, ông Junichi Ihara, Cục trưởng Cục châu Á và Hải dương của Bộ Ngoại giao Nhật Bản đã bày tỏ sự phản đối tới đại sứ quán Trung Quốc. Ông Ihara tuyên bố rằng Nhật Bản sẽ “không bao giờ chấp nhận khu vực phòng không do Trung Quốc lập ra” bao gồm cả nhóm đảo Senkaku.
Ông Ihara cũng cho rằng động thái “vô cùng nguy hiểm” này của Trung Quốc sẽ làm leo thang căng thẳng trong quan hệ giữa 2 nước.
Bộ Ngoại giao Mỹ, Hội đồng An ninh Quốc gia và Lầu Năm Góc cũng bày tỏ quan ngại về những căng thẳng mới xuất hiện ở vùng biển Hoa Đông, đặc biệt là việc Trung Quốc thành lập vùng phòng không và tiến hành cuộc tuần tra đầu tiên ở khu vực này.
“Hành động đơn phương này là một phần nỗ lực nhằm thay đổi tình hình thực tế trên biển Hoa Đông. Các hành động leo thang sẽ chỉ làm gia tăng căng thẳng trong khu vực và tạo ra nguy cơ xảy ra biến cố”, Ngoại trưởng Kerry phát biểu tại Geneva trong lúc tham gia vào các cuộc đàm phán nhằm tiến tới một thỏa thuận về chương trình hạt nhân của Iran.
Ông Kerry cho hay Mỹ đã yêu cầu Trung Quốc “cẩn trọng và kiềm chế” đồng thời cảnh báo Bắc Kinh không được thực thi vùng phòng không.
Trong khi đó, Bộ trưởng Quốc phòng Hagel tái khẳng định rằng quần đảo Senkaku/Điếu Ngư thuộc phạm vi thực hiện của Hiệp ước quốc phòng song phương Mỹ - Nhật và điều đó có nghĩa Washington sẽ bảo vệ đồng minh Tokyo nếu khu vực này bị tấn công.
“Chúng tôi đang liên lạc sát sao với các đồng minh và đối tác của mình trong khu vực bao gồm Nhật Bản. Chúng tôi vẫn kiên định với những cam kết của mình với các đồng minh và đối tác”, ông Hagel khẳng định.
Bộ trưởng Hagel tuyên bố Mỹ sẽ không công nhận những gì Trung Quốc thông báo về vùng phòng không.
Hiện Nhật Bản, Trung Quốc và Đài Loan cùng tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư trên biển Hoa Đông, thuộc Vùng phòng không mà Trung Quốc vừa tuyên bố.
Mỹ vẫn khẳng định trung lập về vấn đề tranh chấp chủ quyền nhưng công nhận quyền kiểm soát thực tế của Nhật Bản./.
Khánh An (Tổng hợp)

CUỘC TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG: NHÌN TỪ GÓC ĐỘ QUAN HỆ QUỐC TẾ VÀ CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

Ailien T. Tran

nghiencuubiendong.vn, Thứ sáu, 26 Tháng 2 2010 15:51
“[L]egal scholars began to acknowledge and respond to the challenge mounted by the skeptics who viewed any reliance on international law as so idealistic as to not simply unrealistic, but dangerous.”
Tạm dịch:
Các học giả về luật bắt đầu nhận ra và trả lời sự khó khăn chồng chất từ các nhà phê bình rằng bất cứ sự dựa dẫm nào vào Công pháp Quốc tế đều không những mang tính chất lý tưởng hay đơn giản là không thực tế, mà còn nguy hiểm.”
Hathaway, Oona A. & Koh, Harold Hongju,
Foundations of International Law and Politics, Foundation Press, New York, New York, 2005
Tôi xin phân tích về cuộc tranh chấp Biển Đông dựa trên cơ sở lý thuyết về Quan hệ quốc tế và Công pháp quốc tế, và từ đó đưa ra đề nghị giải pháp.
Vấn đề Biển Đông mang tính chiến lược quốc gia vì nó là một trong những bước đầu trong công cuộc lấn chiếm thành hệ thống của Trung Quốc. Đây là một vấn nạn về quốc phòng nhưng cũng là cơ hội để cũng cố quốc nội. Nó có thể trở thành chất XÚC TÁC để đưa đến đoàn kết và bình ổn. Vì đây là mối lo lắng chung cho tất cả người Việt trong nước và hải ngoại, nó có thể giúp cho chúng ta có lý do để gác lại những bất đồng chính kiến để cùng nhau chống lại kẻ thù chung. Sự sát cánh này sẽ giúp cho hai bên hiểu nhau hơn, đến gần nhau hơn trong công tác nghiên cứu và bàn thảo kế hoạch, và từ đó sẽ dễ dàng hơn trong những công trình hợp tác phát triển kinh tế, giáo dục và hiện đại hóa đất nước. Nhưng ngược lại, vấn đề Biển đông, ngoài bản chất là hiểm họa quốc phòng, còn thể là chất NỔ dẫn đến sự chia rẽ và biến động trong nước. Các phe đối nghịch sẽ lợi dụng cơ hội này để bôi nhọ chế độ là yếu hèn và “bán nước”. Những luận điệu này sẽ trỡ nên trơ trẽn nếu chúng ta biết xử trí vấn đề Biển Đông một cách khéo léo và thích đáng. Ngược lại, chúng sẽ trỡ nên rất thuyết phục nếu như chính quyền cứ mãi im lìm và không có hành động rõ ràng. Đương nhiên, khi những luận điệu đối nghịch trở nên thuyết phục đến cực điểm, chúng trỡ thành một vũ khí lợi hại cho phe đối nghịch đễ gây biến động trong nước. Trung Quốc đương nhiên không bỏ qua cơ hội này để tiến sâu hơn và hành động mạnh mẽ hơn trong quá trình “gậm nhấm” hoặc lấn áp chúng ta. Như vậy, cùng một lúc, chúng ta phải đương đầu với giặc trong lẫn giặc ngoài. Chúng ta có giữ nổi không? Chắc chắn là không. Đây không còn là sự lựa chọn khéo léo nữa mà là chiến lược. Một là độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, phát triển lâu dài, và tương lai rõ ràng. Hai là bị thôn tính và đồng hóa bởi Trung Quốc, mất tất cả, và tương lai mờ mịt.
Phân tích cuộc tranh chấp Biển Đông thì không thể bỏ qua thái độ và hành động của Trung Quốc, sự phản ứng của Hoa Kỳ, Nhật Bản và Nam Hàn, cũng như vai trò của Tổ chức ASEAN, tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO) và Liên Hiệp Quốc (LHQ). Trong việc tranh chấp lãnh thổ, Việt Nam không phải là nước duy nhất chịu đựng sự ngang ngược của Trung Quốc. Xung quanh biên giới Trung Quốc, hầu như tất cả lân bang đều phải chịu sự xâm lấn của Bắc Kinh, trong đó có Nga, Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan, Ấn độ, Mongolia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Afghanistan, Pakistan. Trong bối cảnh địa chính trị này, rõ ràng là Trung Quốc đang theo đuổi một kế hoạch toàn cầu, trong đó Trung Quốc muốn gia tăng ảnh hưởng địa chính trị trong khu vực Trung Á, Đông Á, và Đông Nam Á. Biển Đông chỉ là một phần trong kế hoạch này, nhưng là một phần rất quan trọng. Tại sao? Vì Biển Đông là nơi có trữ lượng dầu khí ước tính lớn thứ tư trên toàn thế giới sau Kuwait, là địa điểm chiến lược về quân sự và ảnh hưởng địa chính trị toàn cầu. Khống chế Biển Đông sẽ khống chế được toàn khu vực Châu Á Thái Bình Dương (CATBD) và làm chủ tình hình địa chính trị cũng như làm lệch cán cân quyền lực trong khu vực và toàn thế giới. Bên cạnh đó, Biển Đông cũng là nơi giao tiếp của rất nhiều đường vận chuyển tàu biển tấp nập bậc nhất trên thế giới. Eo biển Malaca tiếp giáp với Biển Đông là nơi mà 80% năng lượng của Nhật Bản được chuyển tải qua lại, và 70% giao thương của Hoa Kỳ, Nam Hàn, và Cộng đồng Châu Âu vào khu vực CATBD cũng qua lại eo biển này. Đương nhiên, Hoa Kỳ, Nam Hàn và Nhật Bản sẽ phải phản ứng lại thái độ của Trung Quốc ở Biển Đông để bảo vệ quyền lợi về kinh tế và ảnh hưởng địa chính trị của họ. Về quân sự, Biển Đông rất quan trọng đối với Nam Hàn, Nhật Bản và nhất là Đài Loan vì ba nước này là đổng minh của Hoa Kỳ và họ cần sự hổ trợ về quân sự của Hoa Kỳ để giữ yên bờ cõi trước họa xâm lăng từ Trung Quốc. Ngoài ra, Biển Đông cũng không kém phần quan trọng cho cộng đồng ASEAN vì vùng biển này là “ao nhà” của họ. Các nước ASEAN đều phải đối phó với áp lực của cộng đồng người Hoa và sự gắn bó với cội nguồn của họ nên chính quyền các nước ASEAN lại càng e ngại thái độ của Trung Quốc hơn.
Bối cảnh này cho thấy vấn đề Biển Đông, về bản chất, là một vấn đề không của riêng Việt Nam hay của riêng các nước trong vùng mà là một vấn đề quốc tế liên quan đến nhiều cường quốc trên thế giới. Đây là điều đáng mừng cho Việt Nam vì “ngao cò tranh nhau ngư ông hưởng lợi.” Thế nhưng nếu chúng ta không khéo léo tình thế sẽ trở thành “trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết.” Sự khéo léo này là chiến lược sống còn của Việt Nam.
Phân tích cuộc tranh chấp Biển Đông dựa trên lý thuyết quan hệ quốc tế để giải thích thái độ và hành động của các quốc gia thì tính chất quốc tế của vấn đề càng hiện rõ hơn. Lý thuyết dựa trên quyền lợi giải thích bằng Chủ nghĩa Thực tiễn (Realism), chủ nghĩa Chủ nghĩa Định chế (Institutionalism) và Chủ nghĩa Tự do (Liberalism). Lý thuyết dựa trên Tập quán (Norm-based theories of state behavior) giải thích bằng Chủ nghĩa Cấu trúc (Constructivism), Lý thuyết Công bằng và Chính Danh (Theories of Fairness and legitimacy), Lý thuyết Quy Trình pháp lý (Legal process theories).
Khi nói đến quyền lợi, chúng ta không thể bỏ qua Lý thuyết Cuộc chơi (game theory) hoặc thường được áp dụng qua khái niệm “Vấn nạn của phạm nhân” (Prisoner’s dilemma). Nói nôm na, khái niệm này cũng đồng nghĩa với câu người Việt chúng ta thường nói “đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”. Khi cảnh sát tách hai phạm nhân ra để hỏi cung riêng và nói rằng nếu người này khai ra hành động của người kia, thì người này sẽ được tha bổng, bằng không thì sẽ bị phạt nặng hơn. Đương nhiên mỗi phạm nhân sẽ có khuynh hướng khai ra hành động của kẻ tòng phạm, và người bên kia cũng làm như vậy. Kết quả là cả hai đều bị phạt vì mỗi người đều bị người kia khai báo. Nhưng nếu họ tin tưởng nhau, và cả hai đều không khai ra thì cảnh sát không có bằng chứng để phạt ai cả. Vấn đề là cả hai phạm nhân đều e ngại người kia sẽ không giữ lời và nếu họ không khai ra người kia mà bị người kia khai thì hình phạt sẽ nặng hơn. Vì vậy họ chọn con đường khai báo. Áp dụng ví dụ này vào Công Pháp Quốc Tế, sau đây là ví dụ về hai quốc gia cùng ký kết hiệp định không xây dựng lò nguyên tử. Trường hợp 1, việc xây dựng lò nguyên tử rất dễ dàng và ít tốn kém. Nếu cả hai tuân thủ thì được lợi 5, nhưng nếu một quốc gia tuân thủ trong khi quốc gia bên kia vi phạm thì quốc gia tuân thủ chỉ được 2 và bên vi phạm được 6, và nếu cả hai vi phạm thì cả hai được 3. Trong trường hợp 2, khi việc xây dựng lò nguyên tử rất khó khăn và tốn kém nhiều, nếu cả hai tuân thủ thì được lợi 10, nhưng nếu một quốc gia tuân thủ trong khi quốc gia bên kia vi phạm thì quốc gia tuân thủ chỉ được 6 và bên vi phạm được 8, và nếu cả hai vi phạm thì cả hai được 4. Trong cả hai trường hợp trong ví dụ này Vấn nạn phạm nhân vẫn dùng để lý giải, nhưng sự khác biệt là “khuynh hướng tuân thủ” trong trường hợp 2 rõ ràng hơn vì vi phạm (xây lò nguyên tử) thì lỗ nhiều hơn lợi.
Alone_prince104_Images1
Áp dụng khái niệm này vào vấn đề Biển Đông, chúng ta thấy rõ Quan Hệ Quốc Tế rất quan trọng. Để có được đồng minh chúng ta phải có được uy tín. Cường quốc chỉ liên minh với chúng ta khi đôi bên cùng có lợi và đôi bên tin tưởng lẫn nhau. Và khi ký kết hiệp định, chúng ta phải nghĩ đến những hoàn cảnh và điều kiện để hiệp định này có “khuynh hướng tuân thủ” ngay trong bản chất. Dĩ nhiên, đây không phải là việc dễ dàng, và việc này càng trở nên khó khăn khi quyền lợi và tự hào dân tộc bị tỗn thương, hoặc thù nghịch dân tộc lên đến cực độ.
Theo Chủ nghĩa Thực tiễn, mỗi quốc gia là một thực thể đơn lẽ và thế giới là một hệ thống hỗn loạn, không luật lệ hoặc thứ tự. Vì vậy, mỗi quốc gia phải tự bảo vệ chính mình trước những đe doạ thôn tính xung quanh. Đây là một hệ thống “mạnh được yếu thua” và địa chính trị được khẳng định bằng quyền lực. Khái niệm “cân bằng quyền lực” cần phải được nhấn mạnh vì đây là chỗ bám víu của các nước yếu khi phải đối phó với sự đe dọa của nước lớn. “Cân bằng quyền lực” cũng quan trọng đối với các nước mạnh khi họ muốn bảo toàn thế lực khi đối mặt với những thế lực xung quanh, hoặc khi quốc gia này muốn giành thế mạnh để vươn lên qua mặt thế lực hiện thời. Theo chủ nghĩa thực tiễn, vai trò của Công pháp quốc tế (CPQT) dường như không hiện hữu mà chỉ có Cân bằng quyền lực mà thôi. Theo lập luận này thì Trung Quốc đang muốn vươn lên thành một sức mạnh mới và Hoa Kỳ thì muốn bảo vệ quyền lực hiện có của mình. Vì vậy Hoa Kỳ sẽ phản ứng hành động của Trung Quốc. Gần đây, tàu thăm dò Impeccable của Hoa Kỳ chạm trán với tàu chiến của Trung Quốc là dấu hiệu cho thấy sự căng thẳng tiềm ẩn trong quan hệ Mỹ – Trung. Tàu thăm dò của Hoa Kỳ đã chạm trán hải quân Trung Quốc trong quá khứ, và gần nhất là năm 2008, nhưng tại sao Hoa Kỳ không lên tiếng. Rõ ràng, sự thay đổi nhân sự trong Nhà Trắng cũng dẫn đến sự thay đổi về phương hướng hành động của quốc gia này. Sự lên tiếng lần này cho thấy Hoa Kỳ và Trung Quốc đang tranh giành ảnh hưởng ở Biển Đông.
Sau thế chiến thứ II, chủ nghĩa thực tiễn bị phai mờ bởi sự ra đời của Chủ nghĩa Định chế vì chủ nghĩa này cho rằng CPQT cũng đóng vai trò khá quan trọng trên trường thế giới. Dù CPQT không thể thay đổi thái độ và hành động của các quốc gia, nhưng nó tạo ra môi trường cho các quốc gia trao đổi và thương lượng. Cũng như chủ nghĩa thực tiễn, chủ nghĩa định chế cho rằng các quốc gia đều phải đương đầu với nhiều đe dọa và thế lực xung quanh, nhưng điểm khác biệt là các quốc gia hành động dựa theo cách họ phỏng đoán về cách phản ứng và hành động của các quốc gia trong cuộc. Vì vậy CPQT là một công cụ rất hữu ích cho các quốc gia để tìm hiểu các quốc gia khác và đi đến quyết định chính xác hơn. Theo lập luận này, TQ sẽ phải thăm dò phản ứng của các cường quốc có quyền lợi về kinh tế lẫn quân sự ở Biển Đông trước khi hành động. Vì Biển Đông liên quan trực tiếp đến quyền lợi về kinh tế, quân sự lẫn chính trị của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nam Hàn và cộng đồng Châu Á, sự phản ứng của các nước này sẽ không dể dàng cho Trung Quốc.
Hành động của Bắc Kinh còn tùy thuộc vào công luận trong và ngoài nước, dựa theo chủ nghiã tự do. Dù cho Trung Quốc không phải là một nước dân chủ để người dân có thể lên tiếng một cách tự do, nhưng đất nước này cũng không thể làm ngơ công luận. Bằng chứng là nhà cầm quyền Trung Quốc đã tìm mọi cách để phát triển kinh tế nhằm xoa dịu công luận về những bất đồng trong xã hội. Trước khi hành động đàn áp Tây Tạng, Bắc Kinh cũng tuyên truyền trên truyền hình và báo chí để được sự ủng hộ của công luận. Những hành động này rõ ràng tuân theo sự phán đoán củ chủ nghĩa tự do. Nhưng không chỉ có công luận trong nước là quan trọng, công luận thế giới càng quan trọng hơn vì nó gắn liền với uy tín và tiếng tăm của mỗi quốc gia. Nhất là trong khuynh hướng kinh tế toàn cầu như hiện nay, uy tín không chỉ là uy tín mà lợi nhuận kinh tế. Một quốc gia thiếu uy tín hoặc mang tiếng hung hăng sẽ mất đi sự tin tưởng cần thiết trong việc hợp tác kinh tế và mất đi những sự giúp đỡ của thế giới trong trường hợp bất ngờ như thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, hay suy sụp kinh tế. Đây là ý nghĩa chính của khái niệm “trả giá bằng uy tín” (reputational cost) điều mà các quốc gia phải cân nhắc trước khi hành động. Đương nhiên, Trung Quốc không thể làm ngơ cái giá phải trả một khi Trung Quốc, vì tranh chấp Biển Đông, phải mất đi nhiều mối quan hệ quốc tế, cũng như “mối làm ăn” và “tình bạn khi hoạn nạn” này. Khác với chủ nghĩa thực tiễn, khi cho rằng thế giới này là vô luật lệ và mỗi quốc gia là một chiến sĩ đơn phương, chủ nghĩa tự do cho rằng CPQT được vun bồi bởi sự quan hệ giữa các quốc gia, và thế giới này là một hệ thống tương quan và tùy thuộc lẫn nhau. Nếu Trung Quốc không quan tâm đến “giá cả của uy tín” thì chính Trung Quốc tự cô lập mình và làm nhẹ đi cán cân quyền lực và ảnh hưởng của mình trên trường thế giới.
Trong khi lý thuyết dựa trên Quyền lợi coi nhẹ vai trò của CPQT, lý thuyết dựa trên Tập quán cho rằng CPQT không những quan trọng mà còn có khả năng thay đổi cục diện thế giới. Chủ nghĩa Cấu trúc (Constructivism) nhấn mạnh quan hệ quốc tế (QHQT) trong vai trò của CPQT. Chủ nghĩa này cho rằng QHQT tạo ra rất nhiều sự ràng buộc cho các quốc gia từ nhiều hướng và nhiều lý do khác nhau, và đây là điều ảnh hưởng rất lớn đến sự phân tích tình hình và phương hướng hành động của họ. Các quốc gia sẽ không biết phải làm gì khi đứng trước “ma trận” với nhiều bất trắc khó lường này, vì vậy cách tốt nhất là họ đi theo bước chân người đi trước, và “bắt chước” cách giải quyết của người đi trước trong trường hợp tương tự. Lắm khi, các quốc gia không nghĩ ra điều họ cần cho đến khi được cộng đồng thế giới nhắc nhở. Ví dụ như trường hợp các lãnh tụ châu Âu, sau thế chiến thứ I, không quan tâm đến thương binh cho đến khi Henri Dunant và Hội đồng chữ thập đỏ thế giới nêu lên tầm quan trọng của vấn đề. Tóm lại, Chủ nghĩa Cấu trúc tin rằng khi các quốc gia “đi chơi với nhau,” họ học hỏi lẫn nhau, hay nói một cách khác, QHQT “dạy” các quốc gia cách giao tiếp và “ảnh hưởng” cách hành xử và quyết định hành động. Lập luận này giúp chúng ta hiểu rằng sức mạnh và họng súng không phải là cách duy nhất để giải quyết vấn đề và chúng ta có thể hy vọng có được một giải pháp hòa bình trong vấn đề Biển Đông. Tình hữu nghị giữa Việt Nam, Trung Quốc và các nước láng giềng sẽ là một phần lớn của chìa khóa thành công.
Với lập luận tương tự, Lý thuyết Công bằng và Chính Danh (Theories of fairness and legitimacy) tin rằng công bằng và chính danh là nhân tố chính của luật pháp. Trong CPQT, sự công bằng được bảo đảm bằng sự đồng thuận của các bên tham gia về sự phân chia về quyền lợi và quá trình phân chia dựa trên lẽ phải. “Quá trình đúng” và “phân chia công bằng” đi đôi với nhau nhưng đòi hỏi căn bản thì hoàn toàn trái ngược. Điều trước cần sự yên ổn không thay đổi, nhưng điều sau thì phải được bảo đảm bởi sự thay đổi. Vì vậy, quá trình cố gắng chu toàn cả hai yếu tố này là một sự dằng co, hoàn chỉnh và tái hoàn chỉnh của luật pháp quốc tế, và chính quá trình này làm cho luật pháp quốc tế mang tính mềm dẻo, cập nhật và thuyết phục khiến cho các quốc gia tự nguyện tuân thủ. Hay nói khác đi, theo lối suy nghĩ của Lý thuyết dựa trên Quy Trình pháp lý (Legal process theories), luật pháp quốc tế ngầm chứa “khuynh hướng tuân thủ” tự nguyện (propensity to comply). Đối với lý thuyết này, CPQT dựa trên quyền lợi, hiệu quả và tập quán. Từ góc độ hiệu quả, các quốc gia sẽ rất ngại vi phạm luật quốc tế. Vì luật quốc tế là kết quả của một quá trình đàm phán và phân chia, và để đi đến đàm phán, mỗi quốc gia phải bỏ ra bao nhiêu công sức để nghiên cứu vấn đề. Quá trình này tốn kém thì giờ, công sức và tiền bạc. Nếu họ không muốn tuân thủ, họ lại phải tính toán lại, tìm hiểu lại, và tốn kém lại một lần nữa xem việc không tuân thủ có hại hay lợi trước khi quyết định hành động. Không có lý do gì các quốc gia tốn hao công lực để rồi không sử dụng. Về phương diện quyền lợi và tập quán, các quốc gia cũng có lợi hơn khi tuân thủ những luật lệ đã ký kết vì trong quá trình tìm hiểu và tính toán, các bên tham gia nhận ra rằng ký kết hiệp định sẽ có lợi hoặc là không còn lựa chọn nào khác. Quá trình đi đến một hiệp định dù mang tính ràng buộc hay không, tự nó đã tạo ra sự ràng buộc “tự nhiên” do sự hiểu biết bản chất của vấn đề.
Tóm lại, Lý thuyết dựa trên Quyền lợi đưa lên một cách nhìn rất ảm đạm về CPQT nhưng cho ta hy vọng về QHQT. Ngược lại, Lý thuyết dựa trên Tập quán lại vẽ nên một viễn cảnh nhiều hy vọng về tiềm năng của CPQT nhưng không hề chối từ tầm quan trọng của QHQT. Từ đó chúng ta có thể rút tỉa một giải pháp cho Việt Nam: đó là sự áp dụng khéo léo và phối hợp tài tình giữa CPQT và QHQT.
Cũng xin nêu lên đây những Cơ quan Công quyền quốc tế mà chúng ta có thể nhờ cậy. Đó là Liên Hiệp Quốc (The United Nations), Liên Hiệp các Quốc gia Đông nam Á (The ASEAN) và các công cụ Công Pháp quốc tế (International Law Instruments) như Tòa án Công lý Quốc tế (International Court of Justice (ICJ), Công ước về Luật Biển (Law of the Sea, (UNCLOS 1982), và Công ước về Hiệp định (The Hague Convention of Treaties).
Đề nghị giải pháp
1. Định nghĩa lại và đóng khung lại vấn đề.
Chúng ta thường nêu lên khẩu hiệu “Hoàng Sa và Trường Sa là của chúng ta.” Khẩu hiệu này ngầm ý Hoàng Sa và Trường Sa là một vấn đề và Biển Đông không là vấn đề. Nhưng đã đến lúc chúng ta cần hiểu rằng Hoàng Sa và Trường Sa là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau, và Biển Đông không những là vấn đề mà còn là một rất quan trọng. Vì vậy, chúng ta phải định nghĩa lại và đóng khung lại vấn đề. Từ một vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa trở thành ba vấn đề: (1) Biển Đông, (2) Hoàng Sa và (3) Trường Sa vì Biển Đông là vấn đề quốc tế và Trung Quốc, Hoàng Sa là giữa Việt Nam và Trung Quốc, và Trường Sa là giữa Trung Quốc và năm nước trong khu vực (Việt Nam, Mã Lai, Brunei, Phi Luật Tân và Đài Loan).
2. Phối hợp nhiều sách lược khác nhau
Để có được QHQT tốt, chúng phải có đoàn kết nội bộ tốt, cộng vào sự hỗ trợ của cơ quan công quyền quốc tế, dựa trên cơ sở công pháp quốc tế sẽ dẫn đến hy vọng của Việt Nam
3. Gìn giữ hòa bình, quan hệ tốt đẹp giữa Trung Quốc và Việt Nam
Chúng ta cần phát triển trao đổi văn hóa và hợp tác nghiên cứu khoa học giữa Việt Nam và Trung Quốc. Từ ngàn năm nay, văn hóa Việt Nam bị ảnh hưởng rất nhiều từ văn hóa Trung Quốc, nhưng chiều ảnh hưởng ngược lại thì dường như không có. Điều này rất bất lợi cho Việt Nam vì theo lập luận của chủ nghĩa tự do, công luận trong và ngoài nước có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định và hành động của các quốc gia. Khi hai dân tộc không hiểu nhau, sự thù nghịch càng trở nên gay gắt. Và sự lấn áp về quân sự của Bắc Kinh càng được công luận ủng hộ. Bất cứ một hành động quân sự nào, thắng hay bại, cũng đều tạo ra mất mát về con người và của cải, nên người dân thường không ủng hộ chiến tranh. Nhưng nếu sự thù nghịch dân tộc lên đến đỉnh điểm, người ta sẽ không ngại mất mát và ủng hộ đến cùng. Vì vậy chúng ta phải cố gắng tạo ra sự thông cảm về văn hóa để tạo một công luận thân thiện với Việt Nam và giảm thiểu sự thù nghịch giữa Hán tộc và Việt tộc.
Việc trao đổi văn hóa theo chiều Việt Nam sang Trung Quốc khó xảy ra trong quá khứ vì Việt Nam là nhược tiểu. Nhưng ngày nay, khoa học hiện đại không phân biệt nước lớn hay nhỏ mà là sở học của mỗi học giả tham gia hội thảo. Tinh thần nghiên cứu khoa học không còn phụ thuộc vào dân tộc mà tính trung thực và chất lượng nghiên cứu. Dù cho chính quyền Trung Quốc không trung thực, vẫn có nhiều khoa học gia Trung Quốc tôn trọng sự trung thực, và đây chính là đối tượng chúng ta cần tìm và cùng tham khảo khoa học một cách chân thành. Tinh thần khoa học sẽ là chiếc cầu nối cho học giả Việt Nam và Trung Quốc cùng nhau trao đổi, học hỏi, và kết tình thân hữu. Đây là chất xúc tác cho một mối quan hệ thật sự tốt đẹp và lành mạnh giữa hai dân tộc Việt và Hán.
4. Gìn giữ hòa bình và quan hệ tốt đẹp với quốc tế
Chúng ta phải Gìn giữ hòa bình và quan hệ tốt đẹp với bốn nước tranh chấp để không đơn thân độc mã đối diện với Trung Quốc. Khi chúng ta nói “Trường Sa là của Việt Nam,” lập tức chúng ta tự cô lập mình và đẩy Mã Lai, Phi Luật Tân, Brunei, và Đài Loan về phía Trung Quốc vì chắc chắn bốn nước này không đồng ý tất cả Trường Sa là của Việt Nam. Tương tự như vậy, ASEAN cũng sẽ không ủng hộ Việt Nam, nếu chúng ta cứ khư khư dành tất cả Trường Sa về phần mình. Khối ASEAN rất quan ngại việc Biển Đông lọt vào tay Trung Quốc vì đây là “ao nhà” và “bến đò” của họ để đi lại và buôn bán. Thế nên chúng ta phải dựa vào sự quan ngại này để sát cánh cùng ASEAN mà đối diện Trung Quốc. Thêm vào đó Biển Đông cũng là nơi mà quyền lợi của Hoa Kỳ, Nhật Bản và Nam Hàn bị ảnh hưởng trực tiếp, do đó chúng ta phải có quan hệ tốt đẹp với những cường quốc này. Khi họ phản ứng hành động của Trung Quốc để bảo vệ cho quyền lợi của họ, chúng ta cũng được phần lợi trong đó. Cuối cùng, sự gắn bó không thể thiếu giữa Campuchia, Lào & Việt Nam cần phải luôn luôn giữ gìn. Trung Quốc luôn tranh giành ảnh hưởng với hai nước này nên chúng ta không thể sao lãng. Campuchia và Lào là “hàng xóm mà cũng như vườn nhà”, nếu không xanh tươi thì nhà của chúng ta sẽ không thoáng mát. Trung Quốc mà khống chế hai nước này hoặc Biển Đông thì chúng ta không thể nào giữ yên bờ cõi được nữa. Mỡ rộng quan hệ với Campuchia và Lào để phát triển về kinh tế vì đây là thị trường cho Việt Nam. Bên cạnh đó, hai quốc gia này có nền văn hóa rất lâu đời và phong phú, nên sự giao thoa văn hóa với họ sẽ giúp làm giảm ảnh hưởng nặng nề từ sự xâm nhập của văn hóa Trung Quốc vào Việt Nam.
Nhìn vào vấn đề Biển Đông và sức mạnh của Trung Quốc, tôi tự hỏi: chân lý có thật nằm trong tay kẻ mạnh hay không? Để kết luận, tôi xin nhắc đến câu đồng giao của ông bà ta truyền lại “Nực cười châu chấu đá xe, tưởng rằng chấu ngã ai ngờ xe nghiêng” và người Hán cũng có câu “Mãnh hổ nan địch quần hồ”. Và xin nhớ rằng sức mạnh công phá dữ dội nhất của vủ khí hiện đại nằm trong phần tử bé nhỏ nhất, đó là hạt nguyên tử. Việt Nam sẽ dựa được sức mạnh của “quần hồ” và sẽ tìm được sức mạnh “nguyên tử” này. Vấn đề là Việt Nam có QUYẾT CHÍ hay không?
Ailien T. Tran, Fulbright Fellow 2009, Master in Public Policy, Bachelor of Art in Political Science, Bachelor of Science in Business Administration, University of California, Berkeley
Tài liệu tham khảo
Barbara Koremores et al., “The Rational Design of International Institutions”, p. 55 in International Organization 761, 768(2001)
Finnemore, Martha, “National Interests in International Society,” Cornell University Press, (1996)
Frank, Thomas M., “Fairness in International Law and Institutions.” in Hathaway, Oona A. & Koh, Harold Hongju,Foundations of International Law and Politics, Foundation Press, New York, New York, 2005, p. 152 – 154.
Guzman, Andrew, “A Compliance Based Theory of International Law,” 90 California Law Review 1823 (2002) inMorgenthau, H. J., “Politics Among Nations,” in Hathaway, Oona A. & Koh, Harold Hongju, Foundations of International Law and Politics, Foundation Press, New York, New York, 2005, p. 59 – 61, 62, 72, 74.
Hathaway, Oona A. & Koh, Harold Hongju, Foundations of International Law and Politics, Foundation Press, New York, New York, 2005
Kazenstein, Peter J., Keohane, Robert O., and Krasner, Stephen D. “International Organization and the Study of World Politics.” in Hathaway, Oona A. & Koh, Harold Hongju, Foundations of International Law and Politics, Foundation Press, New York, New York, 2005, p. 4-6.
Moravcsik, Andrew, “Taking Preferences Seriously: A Liberal Theory of International Politics”, 51 International Organization 513 (1997), p. 80-81, 82..
Morgenthau, H. J., “Politics Among Nations,” in Hathaway, Oona A. & Koh, Harold Hongju, Foundations of International Law and Politics, Foundation Press, New York, New York, 2005, p. 32 – 36, 39.
Robert O. Keohane & Joseph S. Nye, Power and Interdependence 19 (1977)
Robert, Keohane O. Jr., “Institutional Theory and the Realist Challenge After the Cold War,” Neorealism & Neoliberalism 269 (David A. Balwin ed., 1983) in Morgenthau, H. J., “Politics Among Nations,” in Hathaway, Oona A. & Koh, Harold Hongju, Foundations of International Law and Politics, Foundation Press, New York, New York, 2005, p. 55.
Slaughter, Anne-Marie, “A Liberal Theory of International Law,” 94 American Society of International Law Proceeding 240 (2000)
Stephen D. Krasner, “Structural Causes and Regime Consequences: Regime as Intervening Variables”, in International Regimes 1 & 2 (Stephen D. Krasner ed., 1983)
Waltz, Kenneth, “Theory of International Politics”, in Hathaway, Oona A. & Koh, Harold Hongju, Foundations of International Law and Politics, Foundation Press, New York, New York, 2005, p. 43.

MỸ VÀ TRUNG QUỐC ĐỐI MẶT VỚI NHỮNG THÁCH THỨC CHUNG

TTXVN (Hong Kong 12/11)
Theo Thời báo châu Á trực tuyến, một tài liệu đang lưu hành trong thời gian gần đây trên mạng Internet Trung Quốc lập luận rằng có 8 lĩnh vực cần phải cải cách khẩn cấp.
Đó là một tài liệu dài và chi tiết, song nói tóm lại tài liệu này tuyên bố rằng tại phiên họp toàn thể lần thứ 3 của Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa 18 (Hội nghị Trung ương 3 khóa 18), các nhà lãnh đạo nước này dự định sẽ hạn chế quyền lực và việc tiếp cận tài chính đối với các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước từng có rất nhiều quyền lực và vẫn thiếu hiệu quả, đồng thời tạo ra một thị trường và môi trường tài chính tốt hơn cho những doanh nghiệp tư nhân hoạt động hiệu quả nhưng vẫn còn giữ vai trò hạn chế, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, những doanh nghiệp đã góp phần chèo lái sự phát triển của Trung Quốc từ nhiều thập kỷ qua.
Điều này chắc chắn hoàn toàn phù hợp với những cải cách đã được phê chuẩn trong quá khứ, và về mặt lý thuyết đó là tính kế thừa. Cách đây một thập kỷ, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thay đổi Hiến pháp, trao cho các doanh nghiệp tư nhân vị thế giống như các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước. Trên thực tế, đây là sự khởi đầu của một cuộc cách mạng toàn diện sẽ kiểm tra ảnh hưởng của các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, vốn là một phần không thể thiếu trong cơ cấu kinh tế và tinh hoa quyền lực của đảng Cộng sản Trung Quốc.
Thông qua các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, giới lãnh đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc ban phát các đặc ân và tiền bạc, thúc đẩy các chương trình nghị sự của họ và cuối cùng thu hút các nguồn tài nguyên của đất nước bằng cách tập trung quyền lực thực sự và một lượng lớn tiền mặt vào tay một thiểu số người. Quá trình này không được thực hiện bởi một nghiên cứu về hiệu quả kinh tế, mà bởi một nỗ lực nhằm vét hết hàng hóa trên thị trường và tạo ra những sự độc quyền thực sự. Điều đó đã hạn chế quá trình này và hút hết tài nguyên của các doanh nghiệp tư nhân.
Cuộc cải cách này nên tạo ra một môi trường kinh tế lâu dài tốt hơn, điều có thể duy trì sự tăng trưởng bền vững của Trung Quốc trong 3 hoặc 4 thập kỷ tới và sẽ thúc đẩy môi trường thuận lợi cho chiến dịch đô thị hóa đã được công bố hồi đầu năm nay rằng sẽ đưa 400 triệu người tới sống ở các thành phố vừa và nhỏ trong thập kỷ tới.
Tất cả những việc này là những kế hoạch dài hạn sẽ được thực hiện với sự phản đối lớn trong một thời gian ngắn. Những ông chủ thực sự của các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước sẽ thấy tiền bạc và quyền lực của họ bị giảm đi, và do đó họ đang phản đối các cuộc cải cách bằng tất cả sức mạnh và những khoản tiền tích lũy khổng lồ của họ. Sự phản đối này mạnh mẽ và bền bỉ đến nỗi Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cần phải thâu tóm quyền lực vào tay mình bằng cách tước đoạt những quyền lực đó khỏi tay các quan chức thấp hơn – và điều này có thể là một lý do cho chiến dịch phê và tự phê được phát trên truyền hình gần đây ở cấp tỉnh và các cấp thấp hơn.
Các chính quyền địa phương, nằm ngoài ánh mắt xoi mói của chính quyền trung ương, trên thực tế là những khu vực mà các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước hoạt động thuận lợi nhất, đang vẽ ra những khoản vay khổng lồ với sự đồng lõa từ những chính quyền các tỉnh và thành phố. Bằng cách này, các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước và các địa phương đã tạo ra những khoản nợ khổng lồ trên thực tế nhưng không được thể hiện chính thức trong ngân sách nhà nước. Có những ước tính khác nhau về các khoản nợ này, song chúng có thể cao hơn 60% GDP của Trung Quốc, một con số đã trở thành ngưỡng xác định hiệu quả kinh tế của một quốc gia.
Chắc chắn rằng nếu vấn về này không được giải quyết khẩn cấp thì trong vòng 10 năm Trung Quốc sẽ biến thành một Liên Xô kỷ nguyên Brezhnev thứ hai và điều đó sẽ là nguyên nhân khiến đất nước này sụp đổ, giống như điều đã xẩy ra với Liên Xô. Tuy nhiên những vấn đề này sẽ chưa xẩy ra ngay cho dù sức ép đối với các danh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước đang được cảm nhận ngay ở thời điểm này.
Và rồi một chính phủ ít trách nhiệm hơn có thể quyết định để có ít những rắc rối hơn – đáp ứng các yêu cầu của các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước và để lại nhiều vấn đề cho thế hệ các nhà lãnh đạo kế cận, những người sẽ bị cho là có tội vì đã gây ra sự sụp đổ của Trung Quốc. Đây là cách được cựu ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc kiêm Bí thư Thành ủy Trùng Khánh Bạc Hy Lai, hiện đã thất thế, tán thành. Ông Bạc Hy Lai ủng hộ các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước hơn các doanh nghiệp tư nhân. Sự sụp đổ vị thế chính trị của ông ta, bằng cách nào đó đã dẫn tới một thỏa hiệp chính trị mới: Phe này biến mất và những người từng ủng hộ ông phải được đưa trở lại với phần còn lại của đảng Cộng sản Trung Quốc.
Nhìn từ góc độ của Trung Quốc, Mỹ cũng đang phải đương đầu với những thách thức ngắn và dài hạn tương tự như Trung Quốc, về dài hạn, Mỹ sở hữu cơ sở hạ tầng yếu kém, và trong vấn đề này, đảng viên ôn hòa của đảng Cộng hòa Bill Mundell từ lâu đã đề xuất tư nhân hóa từng phần trong tài sản mà nhà nước quản lý chưa hiệu quả nhằm hỗ trợ tài chính cho một kế hoạch cơ sở hạ tầng mới đi vào hoạt động, điều này cũng có thể giúp chi trả tốt hơn cho các trường học và dịch vụ y tế.
Tuy nhiên, lời kêu gọi của ông Bill Mundell không được mọi người lưu tâm. Hai đảng viên ôn hòa của đảng Cộng hòa, Henry Kressel và David p. Goldman, nhận thấy sự đổi mới của Mỹ, nhân tố đóng vai trò quan trọng đối với an ninh và sự thịnh vượng của quốc gia, không được tốt. Đổi mới phụ thuộc vào khả năng tiếp cận của các doanh nghiệp với nguồn đầu tư, song các nhà chức trách, dựa trên kinh nghiệm của Trung Quốc, tin rằng chính sách công có thể sẽ có ích. Nhưng những quan ngại này cũng không xuất hiện trong cuộc tranh luận công khai.
Ở một mức độ khác, Tổng thống Mỹ Barack Obama đang thúc đẩy cải cách y tế, vấn đề có thể thúc đẩy sự cải cách lớn tại Mỹ, bởi về cơ bản, mọi người sẽ được tiếp cận tốt hơn với dịch vụ y tế, qua đó nâng cao chất lượng cuộc sống cơ bản của nhiều người. Hiện nay có thể không phải là thời điểm thích hợp cho công cuộc cải cách này. Nó làm tăng chi tiêu công vào thời điểm mà Mỹ cần trả hết các khoản nợ của mình và có thể có nhiều sự phản đối chính đảng khác, trong đó có cả việc đổ lỗi cho tổng thống vì không tạo được sự đồng thuận.
Tuy nhiên, tình trạng tê liệt chính trị xẩy ra do sự phản đối này đang tạo ra một bầu không khí có thể dập tắt những thay đổi dài hạn cần thiết khác ở Mỹ. Nếu tổng thống kế tiếp của Mỹ là một đảng viên đảng Cộng hòa thì các đảng viên đảng Dân chủ cũng có thể phản đối mạnh mẽ bất kỳ cải cách dài hạn nào mà vị tổng thống đó đưa ra.
Nhìn từ góc độ của Trung Quốc, và do chắc chắn sẽ có sai lệch do không nắm được nhiều chi tiết, phe đối lập với ông Obama hiện nay đã làm xói mòn mọi nỗ lực thực hiện những thay đổi dài hạn do những vấn đề quan tâm trong ngắn hạn – giành thắng lợi trong cuộc bầu cử tiếp theo, giành chiến thắng trong cuộc tranh luận và qua đó đạt được những mục tiêu quốc gia và địa phương – có nhiều giá trị hơn nhũng vấn đề dài hạn gây ra sự suy yếu tổng thể của Mỹ.
Tất nhiên, có nhiều lý do để nói rằng cuộc cải cách này đang được xử lý không hiệu quả, và cần làm một số điều tốt hơn. Tuy nhiên, nhìn từ bên ngoài, sự phản đối này nghe có vẻ không thỏa đáng bởi như người Italy thường nói rằng ‘“tốt hơn’ là kẻ thù tồi tệ nhất của ‘tốt’”.
Trên thực tế, dường như có ý kiến từ phía Trung Quốc cho rằng nền dân chủ Mỹ, được thực hiện bởi nỗi ám ảnh với những sự nổi tiếng trong tương lai và sự cạnh tranh luẩn quẩn của những chiến dịch bầu cử liên tục, khiến nước này không thể giải quyết được những vấn đề về cơ cấu – và sự yếu kém này thậm chí có thể khiến Mỹ sụp đổ.
Nếu Trung Quốc có nền dân chủ kiểu Mỹ ngay hiện nay thì các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước sẽ gây cản trở cho các cuộc cải cách và do đó khiến đất nước rơi vào tình trạng trì trệ lâu dài. Kết quả này có thể có một vài điều đáng khen ngợi – nền dân chủ tiến bộ ở Mỹ và ở một số quốc gia châu Âu có thể vấp phải một bức tường – nhưng nó không thể chỉ ra được nước Mỹ dân chủ và châu Âu đã làm cách nào để tạo ra những đổi mới lớn lao trong suốt hai thế kỷ qua.
Có lẽ có một vài vấn đề về cơ cấu trong việc quản lý một hệ thống dân chủ – được hình thành trong một thời kỳ không có truyền hình hay Internet cùng với dân số nhỏ hơn nhiều và ít biến động – giờ đây mọi thứ đang thay đổi với tốc độ nhanh hơn nhiều trên một quy mô lớn hơn và có sự liên kết với nhau. Tuy nhiên cũng có những vấn đề mà đảng Cộng sản Trung Quốc duy vật sẽ gọi là “tâm linh”: sự suy tàn của một loạt những giá trị chung liên kết những người thuộc tầng lớp tinh hoa và quốc gia.
Sự phản đối của đảng Cộng hòa chiếm, ưu thế ở Mỹ dường như là để đánh giá tính chính xác và đúng đắn của sự cần thiết phải tìm kiếm một sự thỏa hiệp với tổng thống để có thể cứu vãn sự đoàn kết của đất nước và đảm bảo một con đường cho cải cách dài hạn. Ở đây, Trung Quốc nhận thức được sự đảo lộn đạo đức và xung quanh vụ Bạc Hy Lai đã có sự rạn nứt đáng kể trong các giá trị chung. Đặc biệt vấn đề rạn nứt này đang được giải quyết bằng cách nỗ lực tập trung những người từng ủng hộ Bạc Hy Lai trước đây, như đảng đã làm vào năm 1989 với những người từng ủng hộ phong trào Thiên An Môn và vào năm 1999 với những cựu tín đồ của phong trào Pháp Luân Công.
Song ngược lại, Mỹ dường như không nhận thức được sự đổ vỡ trong hệ thống giá trị được thiết lập và thậm chí không biết về sự nguy hiểm dài hạn do hệ thống này gây ra. Các thành viên của đảng Dân chủ làm việc vì họ sử dụng sự thỏa hiệp chính trị để giải quyết sự khác biệt về lợi ích và nguyên tắc. Tuy nhiên, nếu không đi đến được thỏa hiệp thì một quốc gia sẽ rơi vào tình trạng bế tắc – hoặc tệ hơn là một cuộc nội chiến. Và những thỏa hiệp này được tìm thấy dựa trên những giá trị chung.
Vậy hiện nay, điều gì đang diễn ra tại Mỹ? Liệu đó có phải là Tea Party – một nhóm có tư tưởng cực đoan – đang tìm cách áp đặt ý chí của mình lên đa số người Mỹ? Đảng Cộng hòa đã lầm lẫn rồi sao? Hay còn điều gì khác? Điều gì khó khăn đến nỗi phần còn lại của đất nước không hiểu về Tea Party? Tại sao những người của Tea Party bị một số đồng nghiệp Mỹ coi là gần giống như Taliban của Afghanistan? Tại sao Mỹ không thể sửa chữa vết nứt này, vết nứt vốn đang phát triển trong lương tâm và trong hệ thống giá trị của họ?
Tất nhiên, Mỹ hiện đang quá bận rộn với những vấn đề của họ để có thể lo lắng đến việc giải thích những điều đó với phần còn lại của thế giới, nhưng sự lúng túng ngày càng tăng ở Trung Quốc và trên thế giới về những gì đang xẩy ra ở Washington và về những khó khăn trong việc tìm hiểu cuộc chiến sẽ kết thúc như thế nào, bên cạnh các vấn đề mức trần nợ công hiện tại, đang làm sụt giảm lòng tin lâu dài đối với Mỹ và do đó quyền lực mềm của nước này là nền tảng của quyền lực rắn.
Nếu quyền lực mềm này bị rung chuyển thì các nước khác sẽ ganh đua để thay thế nó và cố gắng đơn giản này có thể phá vỡ trật tự thế giới hiện tại với hậu quả trung hạn và dài hạn đối với nước Mỹ. Đây là điều không tốt cho cả Mỹ lẫn Trung Quốc, quốc gia cần có một môi trường rất hòa bình và ổn định để thực hiện sự phát triển của họ trong những thập kỷ tới.
* * *
TTXVN (New York 11/11)
Sự phụ thuộc ngày càng tăng của Trung Quốc vào các thị trường năng lượng nước ngoài có thể buộc cường quốc này phải xem xét lại chính sách “không can thiệp” mang tính lịch sử của mình, ít nhất là ở các khu vực sản xuất nguồn năng lượng chính. Ngày 9/10, Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ công bố dữ liệu cho thấy Trung Quốc đã chính thức vượt Mỹ trở thành nhà nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới. Theo mạng tin Stratfor, mặc dù thời điểm chính xác Mỹ “trao cờ” cho Trung Quốc không quan trọng nhưng số liệu thống kê này nhấn mạnh một xu hướng ngày tăng thập kỷ tới: Mỹ ngày càng giảm sự phụ thuộc vào nguồn dầu mỏ toàn cầu trong khi Trung Quốc thì ngược lại.
Tiềm ẩn trong sự phát triển kinh tế thần kỳ của Trung Quốc là tăng trưởng nhanh về nhu cầu năng lượng. Trung Quốc hiện là quốc gia tiêu thụ than lớn nhất thế giới và đang trong xu hướng vượt Mỹ trở thành quốc gia tiêu thụ dầu mỏ lớn nhất. Tiêu thụ dầu mỏ của Trung Quốc đã tăng từ 2,3 triệu thùng/ngày năm 1990 lên 4,7 triệu thùng/ngày năm 2000 và hiện đang hướng tới mức 11 triệu thùng/ngày. Mỹ hiện tiêu thụ khoảng 15 triệu thùng/ngày.
Dù tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đang chậm lại và sẽ khó có thể trở lại mức tăng hơn 10% như trước đây, nhu cầu dầu mỏ sẽ vẫn trong xu hướng tăng. Phần lớn dân số Trung Quốc đang bước vào giai đoạn phát triển kinh tế mà họ có khả năng mua ôtô; khi các nền kinh tế đạt được mức GDP trên đầu người từ 10.000 đến 20.000 USD, tỷ lệ xe hơi so với dân số thường tăng mạnh. Dù tỷ lệ xe hơi so với dân số ở Trung Quốc không thể đạt ngưỡng như ở Mỹ nhưng với quy mô dân số lớn của Trung Quốc đồng nghĩa với việc dù chỉ một thay đổi nhỏ trong tỷ lệ sở hữu xe hơi sẽ làm thay đổi lớn nhu cầu nhiên liệu. Điều này khẳng định rằng việc nhập khẩu dầu mỏ của Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng trong thập kỷ tới, củng cố vị trí là quốc gia nhập khẩu dầu mỏ lớn nhất của cường quốc này.
Ý nghĩa đối với Trung Quốc
Xu thế này có một vài ý nghĩa đối với Bắc Kinh. Ba tập đoàn dầu mỏ quốc gia chính của Bắc Kinh, Tổng công ty dầu khí và hoá chất Trung Quốc (Sinopec), Tổng công ty dầu khí hải dương Trung Quốc (CNOOC) và Công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn dầu khí Trung Quốc (PetroChina) sẽ tiến tục chính sách quyết liệt mở rộng quy mô tiếp cận toàn cầu. Sự chú ý đặc biệt sẽ tập trung ở các quốc gia mà mức sản xuất dầu có tiềm năng tăng như Iraq, Brazil và Venezuela bất chấp sự phức tạp chính trị, vận chuyển xung quanh việc phát triển năng lượng ở các quốc gia này.
Mặc dù một phần của sự mở rộng này nhằm mục đích bảo đảm nguồn cung dầu mỏ cho Trung Quốc, các công ty này cũng tìm cách giảm thiểu rủi ro và muốn trở thành các tập đoàn dầu khí toàn câu. Điều này có nghĩa rằng các công ty sẽ tiếp tục mở rộng hoạt động sang các nước như Mỹ và Canada. Lấy ví dụ, CNOOC và Sinopec đã đầu tư vài tỷ USD vào các mỏ dầu khí đá phiến. Những khoản đầu tư này cũng nhằm nâng cao trình độ công nghệ cho các tập đoàn dầu khí Trung Quốc.
Bên cạnh đó, với sự tăng trưởng kinh tế nội địa Trung Quốc chậm lại và quốc gia này đang trải qua giai đoạn chuyển đổi từ mô hình kinh tế hướng tới xuất khẩu sang mô hình phụ thuộc nhiều hơn vào tiêu thụ nội địa, sẽ có sự suy giảm về cán cân thương mại. Tăng nhập khẩu dầu và các loại hình năng lượng khác sẽ chỉ đẩy nhanh việc xóa bỏ cán cân thương mại tích cực hiện nay của Trung Quốc dù sự thay đổi này đã diễn ra trong vài năm. Nó cũng làm gia tăng rủi ro của Bắc Kinh với các nhân tố bên ngoài, không chỉ là các vấn đề kinh tế mà còn là rủi ro về nguồn cung bằng đường biển. Bắc Kinh đã nỗ lực làm giảm thiểu các rủi ro này bằng việc tăng nhập khẩu bằng đường bộ từ Nga và Trung Á, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là bảo đảm an toàn cho giao thông đường biển vai trò từ lâu đã do Mỹ đảm nhiệm.
Sự phụ thuộc vào năng lượng của Mỹ suy giảm
Khi sự tiêu thụ gia tăng đưa Trung Quốc trở thành nước nhập khẩu dầu lớn nhất, Mỹ lại đang giảm sự phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu dầu khí từ nước ngoài. Ngành công nghiệp dầu mỏ của Mỹ đã trải qua bước tiến công nghệ vượt bậc giúp việc sản xuất dầu của nước này tăng gần 40% trong 3 năm qua, đưa sản xuất nội địa lên mức cao chưa từng thấy kể từ trước Chiến tranh vùng Vịnh thứ Nhất. Dù đây không phải là lý do duy nhất khiến Mỹ giảm mạnh nhập khẩu dầu mỏ, Canada cũng đã tăng mạnh việc sản xuất dầu của mình và đang xuất khẩu sang Mỹ bằng đường bộ Kết quả là Mỹ ngày càng giảm nhập khẩu dầu mỏ từ bên ngoài bằng đường biển. Xu hướng này dự kiến sẽ tiếp tục diễn ra trong thời gian còn lại của thập kỷ này khi Mỹ và Canada tiếp tục tăng cường sản xuất dầu.
Tuy nhiên, việc sản xuất dầu của cả Mỹ và Canada không thể đạt mức đủ cao để Washington không còn phải nhập khẩu dầu từ các nước khác. Bên cạnh đó, Mỹ hội nhập lớn vào dòng chẩy thương mại và thị trường tài chính toàn cầu. Chính vì thế, Mỹ sẽ vẫn rất quan tâm đến thị trường dầu mỏ quốc tế cũng như việc bảo đảm an toàn tuyến giao thông hàng hải không chỉ cho việc vận chuyển năng lượng mà còn các loại hàng hóa khác. Lấy ví dụ, ngay cả khi nếu nhập khẩu năng lượng của Mỹ tư Trung Đông giảm, bất kỳ sự suy giảm mạnh nguồn cung nào từ Trung Đông sẽ dẫn tới các hậu quả kinh tế nghiêm trọng ở Trung Quốc và các quốc gia châu Á khác, cuối cùng sẽ làm ảnh hưởng đến kinh tế Mỹ.
Ngoài ra Mỹ sẽ tiếp tục nhập khẩu dầu thô Trung Đông vì những lý do cơ cấu. Ví dụ, bang California và các bang duyên hải miền Tây không kết nối với phần còn lại của lục địa bằng đường ống và việc xây dựng đường ống dẫn dầu tới các khu vực này khó khăn. Chính vì vậy các nhà máy lọc dầu tại đây sẽ tiếp tục tìm kiếm nguồn dầu thô từ Trung Đông ngay cả khi Mỹ tiếp tục tăng sản xuất dầu trong nước.
Ảnh hưởng của OPEC đang suy giảm
Việc tăng sản xuất năng lượng của Mỹ một phần được cho là do giá dầu mỏ tăng cao. Đây không phải là lần đầu tiên từ giá dầu cao dẫn tới bước đột phá về công nghệ ở các nước phát triển, mở ra nguồn sản xuất dầu vô tận. Trong cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1970, giá dầu cao đã khiến các nhà sản xuất dầu mỏ phát triển sang các khu vực đắt đỏ hơn như vịnh Mexico, bang Alaska và Biển Bắc, dẫn tới sự tăng trưởng bền vững nguồn cung dầu của các thành viên không thuộc OPEC trong suốt những năm 1980. Kết quả là giá dầu mỏ đã giảm mạnh và giữ ở mức thấp trong suốt thời kỳ bất ổn địa chính trị ở Trung Đông, thời điểm đã xẩy ra cuộc chiến tranh giữa Iraq và Iran. Saudi Arabia và các nhà sản xuất dầu OPEC khác ban đầu đã cố gắng hạn chế sản xuất để tăng giá nhưng họ đã không thể gây tác động đáng kể đến giá dầu mỏ vì việc sản xuất của các thành viên không thuộc OPEC tăng quá nhanh. Điều này cuối cùng buộc Saudi Arabia phải tăng sản xuất trở lại để giành lại thị phần, giúp giữ mức giá dầu tương đối thấp cho tới những năm 2000 khi một xu hướng mới nổi lên, nhu cầu tiêu thụ dầu mỏ tăng mạnh từ các nền kinh tế mới nổi.
Ngày nay, việc tăng sản xuất dầu ở Mỹ, Canada, Nga và Brazil đã làm suy giảm khả năng của OPEC trong việc tác động đến giá thành. Tuy nhiên, trái ngược với nhũng ví dụ lịch sử về sản xuất tăng, nhu cầu ngày càng tăng ở Trung Quốc, Ấn Độ và các quốc gia mới nổi khác tới nay đã làm giảm bớt ảnh hưởng từ việc sản xuất dầu tăng của các thành viên không thuộc OPEC vì vậy, việc sản xuất phải tiếp tục tăng trưởng để giữ giá dầu ở mức hiện nay.
Điều này quan trọng đối với nhiều quốc gia Trung Đông vì khả năng khống chế sản lượng dầu mỏ đang bị đặt câu hỏi. Các quốc gia như Saudi Arabia, Oman và những nhà sản xuất dầu mỏ Trung Đông khác không chỉ tăng tiêu thụ nội địa của mình mà còn nhằm đối phó với mùa Xuân Arập 2011, các nước này phụ thuộc vào tăng chi tiêu phúc lợi nhờ xuất dầu để “tránh bão”. Các quốc gia này cần giữ giá dầu cao như hiện nay để duy trì nguồn thu ngân sách của mình, thậm chí họ còn cần giá dầu tiếp tục tăng cao hơn nữa.
Sự phụ thuộc ngày càng tăng của Trung Quốc vào các thị trường năng lượng nước ngoài cũng sẽ đòi hỏi Trung Quốc ngày càng quan tâm đến những diễn tiến chính trị ở Trung Đông và các khu vực sản xuất năng lượng khác. Chính sách trước đây của Bắc Kinh trong các tranh chấp này là không can thiệp nhưng với sự phụ thuộc ngày càng tăng, chính sách này có thể sẽ trở nên lỗi thời. Mỹ sẽ vẫn rất quan tâm đến thị trường năng lượng toàn cầu và các sự kiện địa chính trị có thể ảnh hưởng đến các thị trường này, nhưng việc giảm phụ thuộc vào nhập khẩu dầu mở từ bên ngoài sẽ giúp Washington rảnh tay hơn trong thực thi chính sách đối ngoại của mình tại các khu vực sản xuất dầu khí chiến lược.

Nguồn: THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Tư, ngày 13/11/2013

GIẢI MÃ “GIẤC MỘNG TRUNG HOA”CỦA CHỦ TỊCH TẬP CẬN BÌNH

TTXVN (Hong Kong 12/11)
Ngày 9/11, đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu tổ chức Hội nghị Trung ương 3 khóa 18. Hội nghị quan trọng này là chìa khóa để “giải mã” triết lý cầm quyền của nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc, ông Tập Cận Bình – người sẽ điều hành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới trong 9 năm tới.
Theo thông lệ, trong một chu kỳ 7 phiên họp toàn thể tại mỗi khóa Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc, các phiên đầu tiên và phiên thứ hai thường tập trung vào những vấn đề nhân sự và phiên thứ ba bàn về chính sách. Điều gì diễn ra tại Hội nghị Trung ương 3 lần này? Hội nghị này cho chúng ta biết những gì về nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc, Chủ tịch Tập Cận Bình? “Giấc mộng Trung Hoa” của ông dường như bao gồm cả quyền kiểm soát chính trị cứng rắn và triển vọng về tự do hóa kinh tế? Sau đây là nội dung bài phỏng vấn Roderick MacFarquhar, giáo sư Lịch sử và Khoa học chính trị tại Đại học Harvard, đăng trên trang mạngHồ sơ Trung Quốc:
Hỏi (+): Chính phủ mới của Trung Quốc dưới thời nhà lãnh đạo Tập Cận Bình đang thẳng tay đàn áp xã hội dân sự và siết chặt kiểm soát mạng Internet. Tuy nhiên ông Tập Cận Bình cũng đang trừng phạt các quan chức tham nhũng, trong đó có Bạc Hy Lai và các đồng sự, các thư ký của Chu Vĩnh Khang, một cựu ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Bạn Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc. Vậy liệu ông Tập Cận Bình có thực sự muốn làm những điều này?
Trả lời (-): Ông Tập Cận Bình đã thể hiện rất rõ ràng từ thời điểm trở thành Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc rằng ông đã bị ám ảnh, giống như các nhà lãnh đạo khác của Trung Quốc cũng từng bị ám ảnh tương tự, với hội chứng Gorbachev. Ông nhận thấy, giống như Thủ tướng Lý Khắc Cường, rằng cần thiết phải cải cách kinh tế sâu rộng – những cuộc cải cách thực sự rất quan trọng và rất khó khăn. Tuy nhiên, điều họ lo ngại là họ không biết cuộc cải cách nào có thể là cuộc cải cách giúp loại bỏ tình trạng kiểu Gorbachev, tình trạng mà cải cách này nối tiếp cải cách khác và trước khi biết nó là gì thì cả đất nước và toàn bộ hệ thống đảng đã sụp đổ. Vì vậy, khi tiếp cận những cuộc cải cách kinh tế này, ông Tập Cận Bình muốn đảm bảo rằng sẽ không có vấn đề gì tác động tới đất nước. Ông không biết chính xác những gì đã khiến Trung Quốc phát triển hội chứng Gorbachev, nhưng điều ông có thể làm là ngăn chặn những thứ theo kiểu mà Gorbachev đã cho phép. Gorbachev ủng hộ tất cả các hình thức tự do ngôn luận dưới thuyết Perestroika (một chính sách cải tổ chính trị và kinh tế), song Tập Cận Bình sẽ không chấp nhận điều đó. Chính phủ đã ban hành các hướng dẫn “7 không” về những gì người dân không thể nói, và ông Tập Cận Bình sẽ trở nên cực kỳ khắc nghiệt bởi ông cảm thấy trước hết, đó là một cách để bảo vệ chế độ, và hai là nó đặc biệt quan trọng khi những thay đổi sâu rộng và có lẽ là đáng lo ngại về kinh tế được khởi xướng.
Tại sao ông Tập Cận Bình lại tấn công những quan chức tham nhũng? Đó là vì như cựu Chủ tịch Hồ cẩm Đào đã từng nói – tham nhũng có thể là sự kết thúc của một chế độ. Và theo những gì Tổng biên tập tờ Nhân dân Nhật báo (cơ quan ngôn luận của Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc) thường nói, tham nhũng ngày nay tồi tệ hơn nhiều so với thời Tưởng Giới Thạch khi chế độ của ông này sụp đổ. Vì vậy, đó là một điều đáng lo ngại. Câu hỏi thực sự là họ có trừng phạt bất kỳ kẻ tham nhũng nào, bao gồm cả các thành viên của ban lãnh đạo cấp cao, hay không? Chắc là họ sẽ không làm như vậy. Họ không thể. Bởi vì điều đó sẽ gây chia rẽ nội bộ đảng Cộng sản Trung Quốc. Gia đình của ông Tập Cận Bình đã được hưởng lợi rất nhiều từ thực tế ông trở thành một nhà lãnh đạo, do đó, ông cần bảo vệ tổ ấm của mình. Ông Tập Cận Bình cho biết ông sẽ nghiêm trị cả “những con hổ và những con ruồi” (các quan chức cấp cao và cấp thấp trong đảng Cộng sản Trung Quốc). Cho đến nay ông đã nghiêm trị được “những con ruồi và những con mèo”. Nếu ông công khai xử “con hổ” Chu Vĩnh Khang (người từng được coi là “ông vua an ninh” của Trung Quốc) vì tội tham nhũng, mặc dù người ta biết các chính trị gia sẽ bị liên đới rất nhiều bởi Chu Vĩnh Khang là một đồng minh của Bạc Hy Lai, thì mọi người sẽ bắt đầu chú ý. Nhưng nếu ông Tập Cận Bình xử lý Chu Vĩnh Khang thì tất cả mọi người đều bắt đầu cảm thấy lo lắng.
+ Tuy nhiên, họ đang nỗ lực đi đến đâu? Với sự kiểm soát ngặt nghèo về mặt chính trị cùng những “cuộc cải cách thị trường” về mặt kinh tế, liệu Trung Quốc có trở thành một nước giống như Singapore?
- Nếu Trung Quốc trở thành một Singapore khác, đó sẽ là điều tuyệt vời. Singapore không phải là một nền dân chủ hoàn hảo, nhưng ở đó có tự do ngôn luận hơn so với ở Trung Quốc. Và có thể những gì ông Tập Cận Bình muốn Trung Quốc trở thành sẽ là một xã hội có kỷ luật chính trị, với việc không có những Lưu Hiểu Ba, không có những người ký bản Hiến chương 08, tất cả mọi người đều rất kỷ luật, và mọi người đều tập trung vào cải cách kinh tế. Tại sao vậy? Bởi vì nhiều nhà kinh tế nói rằng họ sẽ thay đổi rất nhiều khi họ thành công. Và dường như ông Lý Khắc Cường rất quan tâm tới việc thúc đẩy những cuộc cải cách này. Vì vậy, những gì ông Tập Cận Bình đang làm là nhằm đảm bảo rằng đấu trường chính trị ổn định để công cuộc cải cách kinh tế có thể được thực hiện một cách êm đẹp.
+ Một số nhà quan sát Trung Quốc cho rằng có sự chia rẽ giữa Chủ tịch Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Khắc Cường, rằng ông Tập Cận Bình là một người theo chủ nghĩa cộng sản Mao Trạch Đông, trong khi ông Lý Khắc Cường lại ủng hộ tư tưởng thị trường. Tuy nhiên, liệu người ta có tin rằng trên thực tế họ đang hợp tác và có sự đồng thuận với nhau?
- Có thể chúng ta sẽ nhớ tới một câu chuyện trong những năm 1990, dưới thời Chủ tịch Giang Trạch Dân, đã có một cuộc thảo luận và người ta quyết định rằng sau khi Giang Trạch Dân và Hồ cẩm Đào mãn nhiệm, những người thừa kế cuối cùng nên là những “ông hoàng con”, bởi vì những “ông hoàng con” này có nhiêu lợi ích đặc quyền đặc lợi – xét về quan điểm gia đình của họ – nhiều hơn bất kỳ ai trong chế độ.
Bất cứ ai đang ở trong một chế độ như của Trung Quốc, cho dù là “ông hoàng con” hay không, đều muốn bảo vệ nó. Và họ sẽ làm bất cứ điều gì để chế độ đó không biến mất, bởi nó rất có lợi cho họ và, theo quan điểm của họ, cho cả đất nước nữa. Các “ông hoàng con” có thể cảm thấy việc gìn giữ niềm tin là nghĩa vụ gia đình đối với cha mẹ và ông bà của họ, nhưng thực sự thì hầu hết các quan chức đều muốn duy trì hệ thống hiện nay.
+ Những chiến thuật cứng rắn của chính phủ hiện nay đã khiến một số quan chức, trí thức và các nhà báo cảm thấy khó chịu. Vậy đối với những người bình thường thì sao? Liệu họ có cảm thấy áp lực? Hay họ nghĩ rằng đó không phải việc của mình?
- Còn nhớ những gì đã xẩy ra khi có những chiến dịch chống tha hóa nhân cách trong những năm 1980. Chiến dịch này đã chấm dứt vì Đặng Tiểu Bình được thông báo, như là kết quả của các chiến dịch chống tha hóa nhân cách, rằng những người nông dân đã ngừng đầu tư vào đất đai. Tại sao vậy? Bởi những người nông dân không phải là những kẻ khờ dại: họ đã học được từ thời kỳ của Mao Trạch Đông rằng “chắng ai có thể sống một mình”. Nếu bạn để cánh tả gây ảnh hưởng đến một phần của xã hội thì cuối cùng nó sẽ gây ảnh hưởng tới chính bạn. Có bao nhiêu người biết Lưu Hiểu Ba là ai trước khi ông bị giam giữ? Có lẽ không nhiều. Nhung người dân Trung Quốc không ngốc nghếch tới mức không nhận ra, đặc biệt là trong thời đại Internet, khi người ta đang bị bắt và thậm chí bị loại bỏ, những gì sẽ xẩy ra với họ ở một giai đoạn khác?
+ Sau Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình đã từng nói: “Trung Quốc nên duy trì cảnh giác chống lại phe cánh hữu nhưng chủ yếu là chống phe cánh tả”. Và trên thực tế, phe cánh tả trong đảng Cộng sản Trung Quốc đã bị hạn chế từ khi bắt đầu các cuộc cải cách hơn ba thập kỷ trước đây. Tuy nhiên, tại sao các nhà lãnh đạo hàng đầu như Hồ cẩm Đào, Tập Cận Bình và Bạc Hy Lai vẫn tiếp tục đi theo con đường của Mao Trạch Đông?
- Có một số lý do giải thích tại sao những người như Bạc Hy Lai và Tập Cận Bình phải chấp thuận, và đi theo đường lối của Mao Trạch Đông. Đầu tiên và quan trọng nhất là tên của cố Chủ tịch Mao Trạch Đông – chính cố Chủ tịch Mao Trạch Đông và những gì ông đã làm cho Trung Quốc – là sợi dây kết nối vô cùng quan trọng giữa nhà nước và xã hội với nhau. Nếu bạn muốn có một xã hội hưởng ứng mình thì Mao Trạch Đông chính là một cái tên được nhắc đến đầu tiên. Đảng Cộng sản Trung Quốc không còn nhận được sự tôn trọng của người dân như trong những năm 1950 và 1960. Cố Chủ tịch Mao Trạch Đông là biểu tượng của đất nước. Họ không thể đưa ông ra khỏi Quảng trường Thiên An Môn, và họ không thể gỡ bức chân dung của ông xuống. Điều đó sẽ giống như việc đặt câu hỏi rằng “Toàn bộ cuộc cách mạng là vì điều gì?”
Thứ hai, người dân, chủ yếu là dân thường, nhìn lại những tháng ngày dưới thời Mao Trạch Đông với một sự tin tưởng lớn lao. Có nhiều ngôi nhà của những người nông dân treo bức hình của Mao Trạch Đông cạnh bức hình của Đức Phật, và một số người tin rằng xã hội dưới thời cố Chủ tịch Mao Trạch Đông công bằng hơn, rằng tất cả mọi người đều nghèo. Trên thực tế, cố Chủ tịch Mao Trạch Đông không hề nghèo. Trong khi đó, ngày nay, sự phân phối thu nhập vô cùng khác nhau và có một khoảng cách lớn giữa người giầu và người nghèo khiến mọi người nhìn lại những ngày tháng dưới thời Mao Trạch Đông với niềm khát khao. Vì vậy, các nhà lãnh đạo phải cúi đầu trước cố Chủ tịch Mao Trạch Đông một lần nữa để cho thấy họ tôn trọng hình thái xã hội đó, ngay cả khi họ không điều hành một nhà nước giống như vậy.
Thứ ba, giới trí thức đang có sự phát triển mạnh mẽ. Đó là những người đã từng ủng hộ chính sách của Mao Trạch Đông trong nhiều năm, và vì những điều nói ở trên về những người phẫn nộ với sự bất bình đẳng của xã hội mới, những trí thức này nhận được sự hậu thuẫn của một số người và có được sự lắng nghe của mọi người. Sự kiện Bạc Hy Lai nói lên rằng Bạc Hy Lai đã rất nổi tiếng không chỉ ở Trùng Khánh mà còn ở các tỉnh lân cận. Bởi vì mọi người nghĩ rằng ông ta đã quay trở lại với quan điểm của cố Chủ tịch Mao Trạch Đông. Tuy nhiên, vẫn có nhiều người không tin điều đó. Mặt khác, Chủ tịch Tập Cận Bình không muốn thực hiện Cách mạng Văn hóa hay Đại nhẩy vọt hoặc bất cứ điều gì giống như vậy, song ông đã đi theo đường hướng của Mao Trạch Đông vì, hãy nhớ rằng, cha của ông Tập Cận Bình (cố Phó Thủ tướng Tập Trọng Huân) từng là đồng chí của Mao Trạch Đông. Cho đến khi bị Mao Trạch Đông thanh trừng, cha của ông Tập Cập Bình đã có một vị trí rất cao trong chính quyền cộng sản, như một kết quả sau chiến thắng của Mao Trạch Đông. Vì vậy, chiến thắng này, đưa những người cộng sản lên nắm quyền, vẫn còn quan trọng đối với tính hợp pháp của chính quyền hiện hành. Cuộc Cách mạng Văn hóa đã làm suy yếu tính hợp pháp của quyền lực. Tuy nhiên, ngay cả khi bị cáo buộc về tội gây ra Cách mạng Văn hóa, Mao Trạch Đông bằng cách nào đó vẫn hợp pháp hóa được đất nước hiện nay.
+ Tuy nhiên, hầu hết các chính sách và tư tưởng của Mao Trạch Đông đã hoàn toàn bị loại bở khỏi Trung Quốc kể từ khi Đặng Tiểu Bình bắt đầu cuộc cải cách của Trung Quốc. Đối với rất nhiều thanh niên Trung Quốc, Mao Trạch Đông là một hình ảnh khá mơ hồ. Trong hoàn cảnh này, liệu chủ nghĩa Mao ít và bản thân Mao Trạch Đông vẫn có thể gắn kết xã hội và nhà nước với nhau?
- Họ không có gì. Và mọi người sẽ đi tới nơi nào trên cuộc hành hương đến Bắc Kinh? Hàng chục nghìn người mỗi tháng đến thăm lăng cố Chủ tịch Mao Trạch Đông. Trong trường tiểu học và trung học cơ sở, học sinh được học về cố Chủ tịch Mao Trạch Đông, như trẻ em ở Anh tìm hiểu về William Người Chinh phục – người đã vượt biển vào năm 1066. Đó là câu chuyện cách đây hàng trăm năm, nhưng họ vẫn biết về điều đó. Thời Mao Trạch Đông thì chỉ cách đây 60-70 năm. Ông đã chiến thắng – thống nhất Trung Quốc. Đó là một chiến thắng vĩ đại. Ông đã thiết lập một chế độ mới. Ông thành lập đất nước Trung Quốc mới. Vì vậy, tất nhiên ông vẫn được xem là một nhân vật anh hùng trong nền giáo dục của Trung Quốc.
+ Liệu mọi người có tiếp tục sử dụng những ý tưởng của Mao Trạch Đông? Trung Quốc đã thay đổi đáng kể từ khi Mao Trạch Đông lãnh đạo Trung Quốc.
- Hầu hết mọi người trong phần lớn thời gian ở hầu hết các nước không nghĩ về chính trị. Đặc biệt là nếu họ nghèo, họ chỉ nghĩ về thực phẩm, chi phí sinh hoạt và nền giáo dục tốt hơn cho con cái họ. Trong ba mươi năm qua, đảng Cộng sản Trung Quốc trong cuộc sống nói chung của một người bình thường có vai trò nhỏ hơn nhiều so với thời Mao Trạch Đông và ngay cả so với thời Đặng Tiểu Bình.
Vì vậy, hầu hết mọi người không lắng nghe đảng Cộng sản Trung Quốc nói về Mao Trạch Đông. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông ở một nơi nào đó đằng sau tâm trí của họ, vì hình ảnh của ông vẫn được đưa vào giảng dậy trong nền giáo dục của Trung Quốc, có một tượng đài ở đó và một bức chân dung Mao Trạch Đông ở đó. Hiện nay, họ có tin vào tư tưởng của Mao Trạch Đông hay không? Điều đó phụ thuộc vào việc những tư tưởng ấy là gì. Một số tư tưởng của Mao Trạch Đông đã được Đặng Tiểu Bình kế thừa: “Tìm kiếm sự thật từ những thực tế”, đó là tư tưởng của Mao Trạch Đông, và nó thực sự là một tư tưởng của Trung Quốc cổ đại mà Mao Trạch Đông đã tiếp thu được, nhưng nó được gán cho là của Mao Trạch Đông. Và “nêu chúng ta có sức mạnh ý chí và quyết tâm, chúng ta có thể làm bất kỳ điều gì”. Đó là điều đang phát triển và ngày càng lớn mạnh ở một đất nước như Trung Quốc. Vì vậy, có một số điều – những điều đơn giản,- mà họ sẽ tin vào.
+ Vậy còn những di sản khác của Mao Trạch Đông, như các phong trào quần chúng mà Bạc Hy Lai đã sử dụng ở Trùng Khánh và ông Tập Cận Bình đang sử dụng hiện nay thì sao?
- Phong trào quần chúng là kẻ thù của các hình thức cải cách kinh tế mà Thủ tướng Lý Khắc Cường và ê kíp của ông định đưa ra. Phong trào quần chúng có chỗ đứng riêng trong một xã hội đang phát triển ở giai đoạn đầu. Nếu muốn thuyết phục người nông dân làm một điều gì đó và cần phải huy động họ làm những công việc cơ bản, như làm những con đập…, thì phong trào này sẽ phát huy tác dụng. Tuy nhiên những gì chúng ta đã thấy trong giai đoạn cải cách là nêu đưa ra sự khuyến khích tài chính, mọi người sẽ đi từ miền Bắc xuống miền Nam của Trung Quốc để kiếm được một công việc trong một nhà máy với mức lương tối thiểu. Họ sẽ ngủ trong những khu nhà tập thể xa gia đình bởi nó mang lại cho họ có một cơ hội xoay xở. Vì vậy, khả năng chế độ này thực hiện phong trào quần chúng là không cao.
+ Liệu chủ nghĩa Mao ít sẽ không chết, hay biến mất khỏi Trung Quốc, bởi vì các nhà lãnh đạo khác sẽ tiếp thu nó ngay cả khi không có Bạc Hy Lai?
- Chủ nghĩa Mao Trạch Đông sẽ không biến mất khỏi Trung Quốc cho đến khi chế độ thay đổi, điều này sẽ dẫn đến việc gỡ bỏ bức chân dung của Mao Trạch Đông, và có lẽ là phá dỡ ngôi mộ của ông. Họ nói rằng ở Nga cuối cùng họ sẽ di dời phần mộ của Lênin, nhưng chưa biết họ sẽ làm gì với ngôi mộ đó. Họ đã di dời phần mộ của Stalin, nhưng nếu họ di dời mộ Lênin thì đó thực sự là một vấn đề lớn. Nhưng đó chính là điều sẽ xẩy ra ở Trung Quốc, vào ngày nay và trong thời đại này, bạn không thể thấy một người được tôn thờ theo kiểu một á thần như vậy.
Tương lai của triều đại của Tập Cận Bình
+ Nhiều người tin rằng cải cách theo hướng thị trường không thể cùng tôn tại với những ông lớn doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước. Vậy điều này sẽ diễn ra như thế nào ở Trung Quốc?
- Tất nhiên sẽ có những sự khác biệt về quan điểm: sự khác biệt quan điểm trong tất cả mọi hệ thống chính trị, không nhất thiết phải là sự khác biệt về cái đích cần đạt đến, mà là phải làm thế nào để đến được đó. Vì vậy tất cả các nhà lãnh đạo hiện nay đều nhất trí về sự cần thiết phải cải cách nhưng câu hỏi là làm thế nào để thực hiện điều đó. Và có thể một số người sẽ nghĩ rằng những biện pháp cải cách của Thủ tướng Lý Khắc Cường là quá cực đoan, và những người khác sẽ ủng hộ các cải cách và họ cho rằng những cải cách đó sẽ không đi đủ xa. Vì vậy, tất nhiên sẽ có những bất đồng và điều này sẽ cho thấy thước đo cho hai vấn đề. Đầu tiên, khả năng Tập Cận Bình duy trì trật tự và kỷ luật trong Bộ Chính trị, và thứ hai bản năng tự sinh tồn trong mội bộ phận các nhà lãnh đạo. Họ nên biết rằng nếu họ bắt đầu chia rẽ đảng Cộng sản Trung Quốc thì rất có thể dẫn đến thảm họa. Một số người nói con đường cho cải cách chính trị là phải công khai thừa nhận các phe phái trong đảng. Đó chính là bước đi đầu tiên hướng tới một chế độ hai đảng. Nhưng không ai muốn đi con đường đó.
+ Điều đó đã xẩy ra với đảng Cộng sản Liên Xô dưới thời Gorbachev
- Gorbachev đã suy nghĩ sai lầm rằng ông ta sẽ tăng cường được chủ nghĩa cộng sản, và trước hết ông đã cố gắng làm điều đó bằng thuyết Perestroika, nghĩa là bằng việc cải cách chế độ. Tuy nhiên, Gorbachev nhận thấy rằng sau 70 năm hoặc lâu hơn dưới sự cai trị của chế độ Cộng sản, các quan chức Liên Xô đã phản đối hình thức cải cách này. Vì vậy ta thực hiện sự công khai thẳng thắn, nhưng mọi người lại bắt đầu chỉ trích các quan chức, và báo chí trở nên rất quan trọng. Vì vậy Gorbachev đã chia rẽ xã hội chống lại chính nó. Và đó là những gì khiến biện pháp này thất bại. Và sau đó, tất nhiên, Gorbachev nghĩ rằng cuộc bầu cử sẽ củng cố cho sự đồng thuận về khả năng cai trị của đảng Cộng sản Liên Xô. Nhưng bản thân ông không bao giờ tham gia ứng cử. Boris Yeltsin đã tham gia canh bạc đó và giành chiến thắng, và chúng ta đều biết những gì xẩy ra sau đó. Vì vậy, nếu mọi người đều biết rõ rằng có những điều chắc chắn không thể làm được vì chúng sẽ làm suy yếu chế độ, thì sau đó họ sẽ không làm theo. Điều đó không khẳng định rằng chế độ này sẽ vẫn tồn tại. Hiện nay nó có những nền tảng không vững chắc. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo sẽ không muốn “tự vẫn”.
+ Liệu ông Tập Cận Bình cuối cùng có đạt được mục tiêu của mình?
- Mục tiêu của ông Tập Cận Bình là “Giấc mộng Trung Hoa”. Mục tiêu đó rõ ràng là làm cho Trung Quốc trở nên ngày càng mạnh mẽ trên trường quốc tế. vấn đề là Trung Quốc không có kinh nghiệm “trong hành động trên vũ đài thế giới”. Không có bất cứ thứ gì cả. Đó là một đất nước vĩ đại trong nhiều thế kỷ, nhiều thiên niên kỷ, nhưng không phải trên trường quốc tế. Nó chỉ là một đất nước vĩ đại ở khu vực Đông Á, và bây giờ là tư tưởng về một nước tham gia có trách nhiệm, đó là những gì mà Trung Quốc cần hướng tới, rất hấp dẫn đối với một số người, nhưng không phải với tất cả các nhà lãnh đạo. Vì vậy, giấc mộng của ông Tập Cận Bình là một Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ hơn, và rằng mọi người ở châu Á, châu Phi và có thể cả ở phương Tây, sẽ phải cúi đầu. Và điều đó đang xẩy ra ở thời điểm hiện tại: mọi người đổ xô đến Trung Quốc để hoạt động thương mại trong mọi lúc. Do đó, giấc mộng của ông Tập Cận Bình là Trung Quốc sẽ ngày càng thâu tóm được nhiều quyền lực, và đảng Cộng sản Trung Quốc cai trị mãi mãi. Tuy nhiên, khả năng đảng Cộng sản cai trị mãi mãi là điều đáng nghi ngờ.
Nguồn: THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Năm, ngày 14/11/2013

THÔNG CÁO BÁO CHÍ HỘI NGHỊ TRƯNG ƯƠNG 3 KHÓA 18 ĐẢNG CỘNG SẢN TRUNG QUỐC

TTXVN (Bắc Kinh 13/11)
(Hội nghị toàn thể lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khoá 18 thông qua ngày 12/11/2013)
Hội nghị toàn thể lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khoá 18 (Hội nghị Trung ương 3 khoá 18) diễn ra từ ngày 9-12/11/2013 tại Bắc Kinh.
Tham dự Hội nghị lần này có 204 ủy viên Trung ương, 169 ủy viên dự khuyết. Các ủy viên Thường vụ ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương và các đồng chí phụ trách liên quan tham dự Hội nghị. Một số đồng chí cấp cơ sở và chuyên gia học giả trong số đại biểu Đại hội 18 của Đảng cũng tham dự Hội nghị.
Hội nghị Trung ương 3 khoá 18 do Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trì. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình có bài phát biểu quan trọng.
Hội nghị đã lắng nghe và thảo luận Báo cáo công tác được Bộ Chính trị uỷ thác cho đồng chí Tập Cận Bình trình bầy, xem xét và thông qua “Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc về một số vấn đề trọng đại liên quan tới cải cách sâu rộng toàn diện”. Đồng chí Tập Cận Bình đã trình bầy trước Hội nghị nội dung bản dự thảo nghị quyết.
Hội nghị đánh giá cao công tác của Bộ Chính trị kể từ Đại hội 18 của Đảng đến nay. Hội nghị cũng nhất chí rằng đứng trước tình hình quốc tế hết sức phức tạp và nhiệm vụ cải cách, phát triển ổn định trong nước vô cùng gian khó, nặng nề, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc quán triệt toàn diện tinh thần Đại hội 18 và Hội nghị Trung ương 1, Hội nghị Trung ương 2, giương cao ngọn cờ vĩ đại chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, lấy lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng “ba đại diện”, quan điểm phát triển khoa học làm nguyên tắc chỉ đạo, đoàn kết dẫn dắt toàn Đảng, toàn quân và nhân dân các dân tộc trên toàn quốc, kiên trì quan điểm cơ bản của công tác là tiến lên trong ổn định, ra sức tăng trưởng ổn định, điều chỉnh kết cấu, thúc đấy cải cách, bình tĩnh ứng phó với các thách thức rủi ro, đẩy mạnh toàn diện xây dụng kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và xây dựng văn minh sinh thái xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy toàn diện công trình vĩ đại mới về xây dựng Đảng, đẩy mạnh vững chắc hoạt động thực tiễn giáo dục đường lối quần chúng của Đảng. Các mặt công tác đã thu được tiến triển mới, thành quả của đẩy mạnh phát triển đã đem lại nhiều lợi ích và công bằng hơn cho toàn thể nhân dân, đã thực hiện một năm khởi đầu tốt đẹp, quán triệt tinh thần Đại hội 18 của Đảng.
Hội nghị đánh giá cao thực tiễn thành công và thành tựu vĩ đại của 35 năm cải cách mở cửa của Hội nghị Trung ương 3 khoá 11, đã nghiên cứu một số vấn đề quan trọng về đi sâu cải cách toàn diện, cho rằng cải cách mở cửa là cuộc cách mạng vĩ đại mà Đảng dẫn dắt nhân dân các dân tộc toàn quốc trong điều kiện thời đại mới, là đặc sắc tươi sáng nhất của Trung Quốc ngày nay, là lựa chọn then chốt quyết định vận mệnh Trung Quốc đương đại, là phép mầu quan trọng trong sự nghiệp của Đảng và nhân dân theo kịp thời đại. Đứng trước tình hình mới, nhiệm vụ mới, xây dựng toàn diện xã hội khá giả, tiến tới xây dựng thành công giấc mộng Trung Hoa về một đất nước hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa giầu mạnh, dân chủ văn minh, hài hoà, phục hưng dân tộc Trung Hoa vĩ đại, cần phải đi sâu cải cách toàn diện trên khởi điểm lịch sử mới.
Hội nghị nhấn mạnh đi sâu cải cách toàn diện, cần phải giương cao ngọn cờ vĩ đại chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, lấy chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng “ba đại diện”, quan điểm phát triển khoa học làm nguyên tắc chỉ đạo, kiên định lòng tin, tạo sự đồng thuận, lập kế hoạch tổng thể, chỉ đạo điều phối kiên trì phương hướng cải cách kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, lấy thúc đẩy công bằng chính nghĩa xã hội, tăng thêm phúc lợi nhân dân làm xuất phát điểm và đích đến, tiến thêm một bước trong việc giải phóng tư tưởng, giải phóng và phát triển sức sản xuất xã hội, giải phóng và tăng cường sức sống xã hội, kiên quyết bài trừ các tệ nạn trong thể chế, cơ chế, nỗ lực mở ra tương lai rộng mở hơn cho sự nghiệp chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.
Hội nghị chỉ rõ mục tiêu chung của đi sâu cải cách toàn diện là hoàn thiện và phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc thúc đẩy hiện đại hoá hệ thống quản lý và năng lực quản lý của đất nước. Cần phải chú trọng hơn tính hệ thống, tổng thể và phối hợp trong cải cách, đẩy nhanh phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, chính trị dân chủ, văn hoá tiên tiến, xã hội hài hoà và văn minh sinh thái, kết hợp sức lao động, tri thức, công nghệ, quản lý và tài chính để tạo thêm nhiều của cải xã hội, để thành quả phát triển mang lại nhiều lợi ích hơn và công bằng hơn cho toàn thể nhân dân.
Hội nghị chỉ rõ phải bám sát đề cao vai trò của thị trường, để thị trường giữ vai trò quyết định trong phân phối tài nguyên, cải cách sâu rộng thể chế kinh tế, kiên trì và hoàn thiện chế độ kinh tế cơ bản, đẩy nhanh hoàn thiện hệ thống thị trường hiện đại, hệ thống điều tiết vĩ mô, hệ thống kinh tế theo mô hình mở, đẩy nhanh chuyển biến phương thức phát triển kinh tế, đẩy nhanh xây dựng nhà nước theo mô hình đổi mới, thúc đẩy kinh tế phát triển hiệu quả hơn, công bằng hơn, bền vững hơn; bám sát đi sâu cải cách thể chế chính trị một cách thống nhất hữu cơ giữa kiên trì sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân làm chủ và quản lý đất nước theo pháp luật, đẩy nhanh thực hiện chế độ hoá, quy phạm hoá, trình tự hoá chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa, phát triển dân chủ nhân dân rộng khắp hơn, phong phú hơn, kiện toàn hơn; bám sát đi sâu cải cách thể chế văn hoá theo hướng xây dựng thể chế giá trị hạt nhân xã hội chủ nghĩa và cường quốc văn hoá xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh hoàn thiện thể chế quản lý văn hoá và thể chế sản xuất kinh doanh văn hoá, xây dựng và kiện toàn hệ thống dịch vụ văn hoá cộng đồng hiện đại, hệ thống thị trường văn hoá hiện đại, thúc đẩy văn hoá xã hội chủ nghĩa phát triển hơn nữa, phong phú hơn nữa; bám sát đi sâu cải cách thể chế xã hội theo hướng đảm bảo tốt hơn về an sinh xã hội, thúc đẩy xã hội công bằng, cải cách chế độ phân phối thu nhập, thúc đẩy cùng giầu có, đẩy mạnh đổi mới chế độ xã hội, thúc đẩy đồng đều hóa dịch vụ công cơ bản, đẩy nhanh hình thành thể chế quản lý xã hội khoa học hiệu quả, bảo đảm xã hội vừa có sức sống mạnh mẽ vừa hài hoà có trật tự; bám sát đi sâu cải cách thể chế văn minh sinh thái theo hướng xây dựng Trung Quốc mỹ lệ, đẩy nhanh xây dựng chế độ văn minh sinh thái, kiện toàn thể chế, cơ chế khai thác phát triển không gian lãnh thổ, sử dụng tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái, thúc đẩy hình thành cục diện mới về xây dựng hiện đại hoá phát triển hài hoà giữa con người với thiên nhiên; bám sát đi sâu cải cách công tác xây dựng Đảng theo hướng nâng cao trình độ thực thi quyền lực khoa học, thực thi quyền lực dân chủ và thực thi quyền lực theo pháp luật, tăng cường xây dựng chế độ tập trung dân chủ, hoàn thiện thể chế lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng, giữ gìn tính tiên tiến, tính thuần khiết của Đảng, bảo đảm giữ vững nền tảng chính trị kiên cường cho công cuộc cải cách mở cửa và xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị chỉ rõ đi sâu cải cách toàn diện phải xuất phát từ thực tế lớn nhất là Trung Quốc ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội trong suốt một thời gian dài, kiên trì phát triển vẫn là chiến lược trọng đại, là mấu chốt để giải quyết mọi vấn đề của Trung Quốc, lấy phát triển kinh tế làm trung tâm, phát huy vai trò dẫn dắt của cải cách thể chế kinh tế, thúc đẩy quan hệ sản xuất và sức sản xuất, kiến trúc thượng tầng phải thích ứng với cơ sở kinh tế, thúc đẩy kinh tế xã hội tiếp tục phát triển lành mạnh.
Hội nghị nêu rõ cải cách thể chế kinh tế là trọng điểm đi sâu cải cách toàn diện, vấn đề cốt lõi là giải quyết tốt mối quan hệ giữa chính phủ với thị trường, làm cho thị trường giữ vai trò mang tính quyết định trong phân phối tài nguyên và phát huy tốt hơn vai trò của chính phủ.
Hội nghị cũng nhấn mạnh thực tiễn cải cách mở cửa thành công là kinh nghiệm quan trọng cho đi sâu cải cách toàn diện, phải kiên trì lâu dài. Điều quan trọng nhất là kiên trì sự lãnh đạo của Đảng, quán triệt đường lối cơ bản của Đảng, không đi con đường cũ là đóng cửa, cứng nhắc, không đi theo con đường bất chính thay đổi hình thái ý thức chính trị (ám chỉ con đường tư bản chủ nghĩa phương tây), kiên định đi theo con đường chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc kiên định đảm bảo phương hướng cải cách đúng đắn, kiên trì giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị, theo kịp thời đại, thực chất, tất cả đều phải xuất phát từ thực tế, tổng kết biện pháp thành công trong nước, học tập kinh nghiệm có lợi của nước ngoài, mạnh dạn thúc đẩy sáng tạo lý luận và thực tiễn; kiên trì lấy con người làm gốc, tôn trọng vai trò chủ thể của nhân dân, phát huy tinh thần sáng tạo của quần chúng, dựa vào nhân dân để thúc đẩy cải cách, thúc đẩy sự phát triển toàn diện của con người; kiên trì giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cải cách, phát triển và ổn định, mạnh dạn, tiến bước vững chắc, tăng cường kết hợp giữa xây dựng kiến trúc thượng tầng và dò đá qua sông, thúc đẩy thực hiện tổng thể và đột phá trọng điểm, nâng cao tính khoa học trong quyết sách cải cách, tạo sự đồng thuận trong nhân dân, hình thành sức mạnh cải cách tổng hợp.
Hội nghị yêu cầu đến năm 2020, trong cải cách lĩnh vực quan trọng và khâu then chốt phải đạt được thành quả mang tính quyết định, hình thành hệ thống chế độ hoàn thiện, khoa học quy phạm, vận hành hiệu quả, làm cho chế độ hoàn thiện hơn, định hình hơn về mọi mặt.
Đối với đi sâu cải cách toàn diện, Hội nghị đề ra phải bố trí có hệ thống, nhấn mạnh kiên trì và hoàn thiện chế độ kinh tế cơ bản, tăng cường hoàn thiện hệ thống thị trường hiện đại, đẩy nhanh việc chuyển đổi chức năng chính phủ, đi sâu cải cách chế độ thuế, kiện toàn cơ chế nhất thể hóa phát triển thành thị nông thôn, xây dựng thể chế kinh tế mới theo hướng mở cửa, tăng cường xây dựng chế độ chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy xây dựng Trung Quốc pháp trị, tăng cường hệ thống giám sát và kiểm soát quyền lực, thúc đẩy sáng tạo cơ chế văn hóa, thúc đẩy sáng tạo sự nghiệp cải cách xã hội, sáng tạo thể chế quản lý xã hội, đẩy nhanh xây dựng chế độ văn minh sinh thái, đi sâu cải cách quốc phòng và quân đội, tăng cường và cải thiện sự lãnh đạo của Đảng đối với việc đi sâu cải cách mở cửa.
Hội nghị chỉ rõ thể chế kinh tế cơ bản trong đó sở hữu nhà nước là một chủ thể, phát triển đồng thời nhiều hình thức sở hữu là trụ cột quan trọng của chế độ chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, cũng là nền móng của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thuộc sở hữu nhà nước và không thuộc sở hữu nhà nước đều là bộ phận cấu thành quan trọng của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đều là cơ sở quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội Trung Quốc. Phải kiên trì củng cố và phát triển kinh tế sở hữu nhà nước, coi trọng vai trò chủ thể của chế độ sở hữu nhà nước, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc hữu, không ngừng tăng cường sức sống, sức khống chế, sức ảnh hựởng của kinh tế quốc hữu. Phải không ngừng khuyến khích, ủng hộ, dẫn dắt sự phát triển kinh tế chế độ không thuộc sở hữu nhà nước, khơi nguồn sức sống và sức sáng tạo của kinh tế không thuộc sở hữu nhà nước. Phải hoàn thiện chế độ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tích cực phát triển kinh tế sở hữu nhiều thành phần, thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước hoàn thiện chế độ doanh nghiệp hiện đại, ủng hộ kinh tế không thuộc sở hữu nhà nước phát triển lành mạnh.
Hội nghị nêu rõ xây dựng hệ thống thị trường mở cửa đồng nhất, cạnh tranh có trật tự là cơ sở để thị trường có vai trò mang tính quyết định trong phân phối tài nguyên. Phải đẩy nhanh hình thành hệ thống thị trường hiện đại doanh nghiệp tự chủ kinh doanh, cạnh tranh công bằng, người tiêu dùng tự do lựa chọn, tự chủ tiêu dùng, hàng hóa tự do lưu thông, trao đổi bình đẳng, ra sức xóa bỏ rào cản thị trường, nâng cao hiệu quả và tính công bằng trong phân phối tài nguyên. Phải xây dựng nguyên tắc thị trường công bằng, mở cửa, minh bạch, hoàn thiện cơ chế giá chủ yếu do thị trường quyết định, xây dựng thị trường đất đai thống nhất giữa thành thị và nông thôn, hoàn thiện hệ thống thị trường tài chính, đi sâu cải cách thể chế khoa học kỹ thuật.
Hội nghị chỉ rõ điều chỉnh vĩ mô khoa học, quản lý chính phủ hiệu quả là yêu cầu nội tại phát huy ưu thế của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Phải chuyển đổi thiết thực chức năng chính phủ, đi sâu cải cách thể chế hành chính, sáng tạo phương thức quản lý hành chính, củng cố lòng tin và chấp hành sự chỉ đạo chính phủ, xây dựng chính phủ pháp trị và chính phủ theo kiểu phục vụ. Phải kiện toàn hệ thống điều hành, điều tiết vĩ mô, thực hiện toàn diện, đúng đắn chức năng chính phủ, tối ưu hóa kết cấu tổ chức chính phủ, nâng cao trình độ quản lý khoa học.
Hội nghị nêu rõ tài chính là cơ sở và trụ cột quan trọng trong quản trị quốc gia, thể chế hóa thuế và tài chính một cách khoa học là sự bảo đảm chế độ tối ưu hóa phân phối tài nguyên, duy trì sự đồng nhất của thị trường, thúc đẩy công bằng xã hội, giữ gìn ổn định trị an xã hội. Phải hoàn thiện lập pháp, xác định rõ quyền lực, cải cách chế độ thuế ổn định, dự toán minh bạch, nâng cao hiệu quả, xây dựng chế độ tài chính hiện đại, phát huy tính tích cực của trung ương và địa phương. Phải cải tiến chế độ quản lý dự toán, hoàn thiện chế độ thu thuế, xây dựng chế độ quyền và trách nhiệm chi tiêu cùng phù hợp.
Hội nghị nêu rõ rằng kết cấu nhị nguyên thành thị-nông thôn là trở ngại chủ yếu trói buộc nhất thể hóa phát triển thành thị-nông thôn. Phải kiện toàn cơ chế thể chế, hình thành hệ thống thành thị-nông thôn công nông kiểu mới lấy công nghiệp thúc đẩy nông nghiệp phát triển, lấy thành thị vực nông thôn, phát triển đồng thời cả công nghiệp và nông nghiệp, thành thị và nông thôn là một chính thể thống nhất, để đông đảo nông dân bình đẳng tham gia tiến trình hiện đại hóa, cùng chia sẻ thành quả hiện đại hóa. Phải đẩy nhanh xây dụng hệ thống kinh doanh nông nghiệp kiểu mới, trao cho nông dân nhiều quyền về tài sản hơn nữa, thúc đẩy phân phối công bằng tài nguyên chung và trao đổi bình đẳng, hoàn thiện cơ chế đô thị hóa phát triển lành mạnh.
Hội nghị chỉ rõ rằng để thích ứng với tình hình kinh tế toàn cầu hóa mới, phải đẩy mạnh mở cửa đối nội, đối ngoại, kết hợp tốt giữa thu hút đầu tư và đầu tư ra nước ngoài, thúc đẩy yếu tố quốc tế và trong nước lưu thông tự do có trật tự, sử dụng hiệu quả tài nguyên, thâm nhập sâu vào thị trường, tạo ra nhiều ưu thế cạnh tranh mới đế tham gia và dẫn dắt hơp tác kinh tế thế giới, góp phần đẩy nhanh công cuộc cải cách mở cửa. Phải mở rộng đầu tư, đẩy nhanh xây dựng phát triển khu thương mại tự do, mở cửa biên giới phía Tây.
Hội nghị nêu rõ phát triển chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa phải đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì và hoàn thiện chế độ đại hội đại biểu nhân dân, chế độ hợp tác đa đảng và hiệp thương chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ khu tự trị dân tộc và chế độ quần chúng tự quản cấp cơ sở, chú trọng hơn nữa đến việc kiện toàn chế độ dân chủ, hình thức dân chủ phong phú, phát huy tối đa tính ưu việt của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, cần thúc đẩy phát triển chế độ đại hội đại biểu nhân dân theo kịp thời đại, thực hiện chế độ hóa dân chủ hiệp thương sâu rộng, phát triển dân chủ cơ sở.
Hội nghị chỉ rõ xây dựng Trung Quốc pháp trị cần đi sâu cải cách thể chế tư pháp, đẩy nhanh việc xây dựng chế độ tư pháp xã hội chủ nghĩa công bằng, chính trực, hiệu quả cao và có quyền uy cần duy trì quyền lực tối cao của hiến pháp pháp luật, đi sâu cải cách chế độ hành chính, thực thi pháp luật, đảm bảo quyền điều tra xét xử, quyền thanh tra công bằng, độc lập trên cơ sở luật pháp, kiện toàn cơ chế thực thi quyền lực tư pháp, hoàn thiện chế độ đảm bảo nhân quyền.
Hội nghị chỉ rõ kiên trì quản lý quyền lực, quản lý công việc, quản lý con người bằng chế độ, để nhân dân giám sát quyền lực, để quyền lực được thực thi minh bạch, là quyết sách cơ bản để quản lý quyền lực trong khuôn phép chế độ cần xây dựng hệ thống thực thi quyền lực với việc đưa ra quyết sách khoa học, thực thi kiên quyết, giám sát chặt chẽ, kiện toàn cơ chế phòng, chống tham nhũng, xây dựng chính trị trong sạch, liêm khiết, nỗ lực thực hiện cán bộ trong sạch, ngay thẳng, chính phủ trong sạch, liêm khiết, chính trị trong sạch, sáng suốt. Phải hình thành cơ chế quản lý và phối hợp quyền lực một cách khoa học và có hiệu quả, tăng cường tính sáng tạo và đảm bảo cơ chế phòng, chống tham nhũng, kiện toàn cải tiến chế độ chuẩn hóa tác phong.
Hội nghị chỉ rõ xây dựng cường quốc văn hóa xã hội chủ nghĩa, tăng cường quyền lực mềm về văn hóa quốc gia, phải kiên trì phát triển văn hóa tiên tiến xã hội chủ nghĩa, kiên trì đường lối phát triển văn hóa xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc, kiên trì phương hướng công tác lấy nhân dân làm trung tâm, đi sâu cải cách thể chế văn hóa hơn nữa. Phải hoàn thiện thể chế quản lý, xây dựng kiện toàn hệ thống văn hóa hiện đại, tạo cơ chế dịch vụ văn hóa công cộng, mở rộng giao lưu văn hóa.
Hội nghị nêu rõ để thành quả phát triển đem lại nhiều lợi ích và công bằng hơn đến với toàn thể nhân dân, phải tăng cường cải cách sự nghiệp xã hội, giải quyết tốt vấn đề lợi ích mà người dân quan tâm nhất, trực tiếp nhất và thiết thực nhất, đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu của người dân. Cần đi sâu cải cách toàn diện giáo dục, kiện toàn thúc đẩy cơ chế việc làm và lập nghiệp, hình thành mô hình phân phối thu nhập hợp lý, có trật tự, xây dựng chế độ bảo đảm an sinh xã hội công bằng, bền vững hơn, đi sâu cải cách hệ thống y tế và quản lý dược phẩm.
Hội nghị chỉ rõ rằng sáng tạo trong quản lý xã hội phải chú trọng đến việc duy trì lợi ích căn bản của đại đa số, ra sức nhân rộng yếu tố hài hòa, tăng cường sức sống phát triển xã hội, nâng cao trình độ quản lý xã hội, đảm bảo an ninh quốc gia, đảm bảo nhân dân an cư lạc nghiệp, giữ gìn trật tự xã hội. Phải cải tiến phương thức quản lý xã hội, khuyến khích nguồn lực tổ chức xã hội, sáng tạo cơ chế phòng ngừa có hiệu quả và giải quyết mâu thuẫn xã hội, kiện toàn hệ thống an ninh công cộng. Thành lập ủy ban An ninh Quốc gia, hoàn thiện thể chế và chiến lược an ninh quốc gia, bảo đảm an ninh quốc gia.
Hội nghị chỉ rõ phải xây dựng thể chế, chế độ văn minh sinh thái một cách có hệ thống và hoàn chỉnh, bảo vệ môi trường sinh thái bằng chế độ. Phải kiện toàn chế độ quyền sở hữu và quản lý khai thác tài sản tài nguyên thiên nhiên, đưa ra giới hạn đỏ về bảo vệ sinh thái, thực hiện chế độ sử dụng tài nguyên có bồi thường và chế độ đền bù sinh thái, cải cách chế độ quản lý bảo vệ môi trường sinh thái.
Hội nghị nêu rõ bám sát mục tiêu xây dựng quân đội hùng cường với một đội quân nhân dân tuân theo sự chỉ huy của Đảng, có thế đánh thắng trận, tác phong tốt trong tình hình mới, ra sức giải quyết vấn đề mâu thuẫn nổi cộm hạn chế xây dựng phát triển quốc phòng và quân đội, đổi mới phát triển lý luận quân sự, tăng cường chỉ đạo chiến lược quân sự, hoàn thiện phương châm chiến lược quân sự thời kỳ mới, xây dựng hệ thống sức mạnh quân sự hiện đại đặc sắc Trung Quốc, cần đi sâu cải cách điều chỉnh biên chế quân đội, thúc đẩy cải cách, điều chỉnh chế độ chính sách quân đội, đẩy mạnh phát triển hòa hợp đi vào chiều sâu giữa quân đội và nhân dân.
Hội nghị nhấn mạnh đi sâu cải cách toàn diện phải tăng cường và cải thiện sự lãnh đạo của Đảng, phát huy đầy đủ vai trò hạt nhân lãnh đạo là Đảng nắm toàn diện, điều hoà giữa các bên, nâng cao trình độ lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng, bảo đảm chắc chắn cải cách thu được thành công. Trung ương thành lập nhóm lãnh đạo đi sâu cải cách toàn diện, chịu trách nhiệm lập kế hoạch tổng hợp, điều hoà phối hợp, bao quát toàn diện, đôn đốc thực hiện. Các cấp ủy đảng phải thực hiện thiết thực trách nhiệm lãnh đạo cải cách. Phải đi sâu cải cách chế độ nhân sự cán bộ, xây dựng cơ chế tập hợp được nhân tài, phát huy đầy đủ tính tích cực, tính chủ động, tính sáng tạo của quần chúng nhân dân, khuyến khích cơ sở địa phương và quần chúng mạnh dạn tìm tòi, kịp thời tổng kết kinh nghiệm.
Hội nghị đã phân tích tình hình và nhiệm vụ hiện nay, nhấn mạnh các đồng chí trong toàn Đảng phải thống nhất tư tưởng và hành động trong việc triển khai các quyết sách quan trọng về đi sâu cải cách toàn diện, tăng cường ý chí tiến thù, ý thức cơ hội, ý thức trách nhiệm, nắm vững phương hướng, mạnh dạn tìm tòi thực tiễn, chú trọng phối hợp điều hoà, tạo sự đồng thuận trong cải cách, thực hiện trách nhiệm lãnh đạo, kiên định thực hiện quyết sách cải cách của trung ương. Phải căn cứ vào quyết sách của trung ương, kiên trì tiến lên trong ổn định, đạt được thành quả trong ổn định, thực sự làm tốt các mặt công tác, duy trì xu thế phát triển kinh tế, xã hội, quan tâm đến quần chúng đặc biệt là đời sống của quân chúng khó khăn, phát triển xã hội ổn định hài hoà, tiếp tục đẩy mạnh vững chắc hoạt động thực tiễn giáo dục đường lối quần chúng của Đảng, nỗ lực thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội đã đề ra.
Hội nghị kêu gọi các đồng chí trong toàn Đảng phải đoàn kết, gắn bó trong Trung ương Đảng do đồng chí Tập Cận Bình làm Tổng Bí thư, anh dũng tiến lên, vượt qua mọi khó khăn, viết nên trang sử mới trong sự nghiệp vĩ đại cải cách mở cửa, phấn đấu xây dựng thành công xã hội khá giả toàn diện, không ngừng giành được những thắng lợi mới trong xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, thực hiện “giấc mộng Trung Hoa” là phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa.
Nguồn:
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Năm, ngày 14/11/2013