Thứ Hai, 23 tháng 12, 2013
Thứ Năm, 19 tháng 12, 2013
Quán triệt Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị
Đội ngũ chính trị viên của Trường Sĩ quan Chính trị là cán bộ của Đảng, của Quân đội, “là người chủ trì về chính trị”[1] ở các hệ, tiểu đoàn, đại đội trong toàn Trường, trực tiếp tiến hành công tác đảng, công tác chính trị; tổ chức, tuyên truyền, giáo dục đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của Nhà trường tới cán bộ, học viên, chiến sĩ trong đơn vị, góp phần quan trọng bảo đảm cho đơn vị luôn đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Trong hệ thống phẩm chất, năng lực của người chính trị viên, thì phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống luôn được coi là cái gốc, cái nền tảng của người chính trị vên; luôn gắn với tài năng, là cơ sở để tài năng hình thành, phát triển và được trọng dụng. Cụ thể hoá Nghị quyết số 51 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 513 của Đảng uỷ Quân sự Trung ương tiếp tục khẳng định: “Cán bộ được bổ nhiệm chính ủy, chính trị viên phải là những đồng chí đủ tiêu chuẩn, tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; có năng lực tiến hành công tác đảng, công tác chính trị; có tính Đảng và tính nguyên tắc cao, thực sự tiền phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết trong Đảng và đơn vị; có đủ điều kiện và tín nhiệm làm bí thư cấp ủy”[2].
Từ khi tái lập đến nay, Trường Sĩ quan Chính trị đã quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 51-NQ/TƯ ngày 20 tháng 7 năm 2005 của Bộ Chính trị (khoá IX) về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong QĐND Việt Nam, Nghị quyết số 513-NQ/ĐUQSTW ngày 17 tháng 11 năm 2005 của Đảng uỷ Quân sự Trung ương lãnh đạo triển khai tổ chức thực hiện Nghị quyết số 51-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá IX) về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong QĐND Việt Nam, trực tiếp là Quy định số 85-QĐ/ĐUQSTW ngày 03/4/2006 của Thường vụ Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Quyết định số 771/QĐ-BQP ngày 04/4/2006 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Quy định số 1723/QĐ-CT ngày 01/12/2007 của Tổng cục Chính trị về ban hành chức danh, nhiệm vụ mối quan hệ công tác của chính uỷ, chính trị viên, chủ nhiệm chính trị; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của cơ quan Chính trị các cấp trong Quân đội. Theo đó, Đảng uỷ, Ban Giám hiệu Nhà trường rất chú trọng xây dựng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị đủ biên chế, có phẩm chất, năng lực toàn diện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đội ngũ chính uỷ, chính trị viên trong Nhà trường đều được tuyển chọn từ những nguồn được đào tạo cơ bản, có phẩm chất, năng lực toàn diện, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức, lối sống trong sáng; giỏi về công tác đảng, công tác chính trị, hiểu biết sâu sắc về quân sự, hậu cần, kỹ thuật, gần gũi với học viên, chiến sĩ, hết lòng thương yêu mọi người, được mọi người tín nhiệm; nhận thức sâu sắc vị trí “chủ trì về chính trị” đối với đơn vị, có nhiều cố gắng vươn lên trong nghiên cứu, quán triệt đường lối, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đánh giá tình hình, đề xuất những chủ trương, biện pháp lãnh đạo đúng đắn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp uỷ cấp mình về toàn bộ các hoạt động của đơn vị, lãnh đạo, chỉ đạo đơn vị giữ vững định hướng chính trị, thực hiện đúng đường lối chính trị của Đảng; cùng với cấp uỷ, người chỉ huy lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Báo cáo Sơ kết thực hiện Nghị quyết 51-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá IX) ở Đảng bộ Trường Sĩ quan Chính trị ngày 18/11/2013 đã chỉ rõ: “Hiện nay, tổng số cán bộ chính trị cấp hệ, tiểu đoàn, đại đội trong Nhà trường là 42 đ/c, trong đó 42/42 có trình độ đại học trở lên, số qua chiến đấu và phục vụ chiến đấu 03/42 = 7,14%; chính trị viên hệ, tiểu đoàn hoàn thành tốt nhiệm vụ 04/12 = 33,33%, hoàn thành khá nhiệm vụ 08/12 = 66,67%; chính trị viên, chính trị viên phó đại đội hoàn thành tốt nhiệm vụ 15/30 = 50%, hoàn thành khá nhiệm vụ 14/30 = 46,67%, hoàn thành nhiệm vụ 01/30 = 3,33%”[3].
Để góp phần thực hiện tốt Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 513 của Quân uỷ Trung ương, yêu cầu xây dựng Quân đội, Nhà trường trong thời kỳ mới, nhằm tạo ra đội ngũ chính trị viên vừa có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức, lối sống trong sáng; vừa có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ giỏi - người thầy trực tiếp và gần gũi có khả năng quy tụ, lôi cuốn học viên thành phong trào học tập, rèn luyện, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, Nhà trường chính quy, tiên tiến, mẫu mực, góp phần “Xây dựng Quân đội nhân dân… cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu”[4]. Cùng với bồi dưỡng phẩm chất, năng lực toàn diện, Nhà trường rất chú trọng bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho đội ngũ chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay.
Về bồi dưỡng phẩm chất chính trị
Phẩm chất chính trị là phẩm chất bao trùm xuyên suốt, yêu cầu quan trọng bậc nhất, là sự biểu hiện tập trung nhất và cao nhất của người chính trị viên trong quân đội, chi phối đến tư tưởng và toàn bộ quá trình hoạt động của chính trị viên. Với tư cách “là người chủ trì về chính trị”, chính trị viên các hệ, tiểu đoàn, đại đội ở Trường Sĩ quan Chính trị phải thực sự là người đại diện cho Đảng, người cán bộ lãnh đạo của Đảng trong quân đội, thực sự kiên định, vững vàng với đường lối chính trị của Đảng, quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối, quan điểm của Đảng trong xây dựng đơn vị, dẫn dắt đơn vị đi theo đúng đường lối chính trị của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị kế hoạch của Đảng uỷ, Ban Giám hiệu Nhà trường, cấp uỷ các cấp.
Trong xây dựng, bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho chính trị viên, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng bồi dưỡng phẩm chất chính trị - lòng trung tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc, nhân dân và Quân đội, suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng và được coi“Đó là điều chủ chốt nhất”[5]. Bồi dưỡng phẩm chất chính trị cho chính trị viên các hệ, tiểu đoàn, đại đội ở Trường Sĩ quan Chính trị luôn được Đảng uỷ, Ban Giám hiệu Nhà trường coi đó là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, để làm cho đội ngũ chính trị viên của Nhà trường đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ xây dựng đơn vị vữnh mạnh về chính trị trong tình hình mới, cũng như làm kiểu mẫu, người thầy hướng dẫn trực tiếp cho học viên về công tác đảng, công tác chính trị, đáp ứng mục tiêu yêu cầu đào tạo của Nhà trường. Bồi dưỡng phẩm chất chính trị cho đội ngũ chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị phải toàn diện, song cần chú trọng bồi dưỡng, giáo dục làm cho đội ngũ này có trình độ hiểu biết sâu sắc, nắm vững những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của cách mạng, của Quân đội và Nhà trường, âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” chống phá cách mạng, Quân đội ta của các thế lực thù địch… Qua đó, xây dựng, bồi dưỡng cho họ có kiến thức, năng lực toàn diện, nhạy bén, sắc sảo về chính trị, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tình cảm đúng đắn, niềm tin sâu sắc và trách nhiệm cao, lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước, nhân dân và Quân đội, luôn đặt lợi ích của Đảng, Tổ quốc, nhân dân, Quân đội, Nhà trường và đơn vị lên trên lợi ích của bản thân; tích cực đấu tranh trên mặt trận chính trị, tư tưởng bảo vệ Đảng, Nhà nước và Quân đội; có động cơ phấn đấu, rèn luyện tốt, có ý chí quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, thử thách, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với đặc trưng bản chất của Quân đội ta “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”, xứng đáng với truyền thống của Nhà trường “Trung thành, sáng tạo, đoàn kết, vượt khó, dạy tốt, học tốt”.
Về bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, lối sống
Là người chủ trì về chính trị, là “linh hồn”, “điểm tựa” tinh thần của cán bộ, học viên trong đơn vị. Trong đơn vị quản lý học viên chính trị viên trực tiếp tiến hành công tác đảng, công tác chính trị, tổ chức, tuyên truyền đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước tới cán bộ, học viên; chính trị viên còn là hiện thân, là trung tâm đoàn kết, “làm người kiểu mẫu trong mọi việc”[6], gần gũi, lắng nghe ý kiến của cán bộ, học viên; tổ chức, giáo dục, xây dựng tinh thần đoàn kết thống nhất trong đơn vị góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị được giao. Vì vậy, bên cạch phẩm chất chính trị tốt, năng lực chuyên môn giỏi, đòi hỏi người chính trị viên các hệ, tiểu đoàn, đại đội ở Trường Sĩ quan Chính trị phải thực sự mẫu mực về phẩm chất đạo đức, lối sống. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, lối sống cho chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị là trách nhiệm của Đảng uỷ, Ban Giám hiệu Nhà trường, các tổ chức lực lượng và bằng nhiều hình thức, biện pháp phong phú, đa dạng. Song, trước hết và quan trọng nhất là tự mỗi người chính trị viên phải tích cực học tập, công tác, khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao; ra sức rèn luyện lối sống trong sạch, lành mạnh, giản di, tiết kiệm, không tham nhũng, không đặc quyền, đặc lợi, không tham vọng cá nhân, không cơ hội, xu nịnh, bè phái, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện của đạo đức, lối sống thực dụng, sa đoạ, suy thoái, trái với bản chất “Bộ đội Cụ Hồ”.
Về bồi dưỡng ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần thương yêu học viên
Ý thức tổ chức kỷ luật, lòng nhân ái, tinh thần thương yêu học viên của chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị là điều kiện căn bản bảo đảm cho đơn vị luôn dân chủ, đoàn kết, kỷ luật, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Để đội ngũ chính trị viên ở Trường sĩ quan Chính trị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, cùng với bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, đội ngũ chính trị viên trong Nhà trường hơn ai hết phải là lực lượng thường xuyên đi đầu quán triệt và thực hiện nghiêm đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Quân đội, các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch của Đảng uỷ, Ban Giám hiệu Nhà trường; thương yêu con người, hoà mình với quần chúng. Đối với Tổ quốc chính trị viên phải tuyệt đối trung thành; đối với nhân dân chính trị viên phải kính trọng, lễ phép, hết sức đoàn kết và giúp đỡ làm cho dân tin, dân phục, dân yêu bộ đội; đối với cán bộ, học viên, chiến sĩ trong đơn vị chính trị viên phải gần gũi, “thân thiết như một người chị, công bình như một người anh, hiểu biết như một người bạn.” [7] chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần, đến sự tiến bộ của cán bộ, học viên, chiến sĩ; hết sức tạo điều kiện cho cán bộ, học viên, chiến sĩ trong đơn vị tiến bộ và hoàn thành tốt nhiệm vụ, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện thiếu tôn trọng với học viên, quân phiệt, quan liêu, cá nhân chủ nghĩa. Do vậy, bồi dưỡng ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần thương yêu học viên cho đội ngũ chính trị viên trong Nhà trường là việc làm cần thiết và có ý nghĩa thiết thực góp phần hoàn thiện phẩm chất nhân cách người chính trị viên theo tinh thần Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 513 của Quân uỷ Trung ương và thực tiễn xây dựng Quân đội, Nhà trường ta hiện nay./.
[1] . BCHTW, Nghị quyết số 51-NQ/TƯ, ngày 20 tháng 7 năm 2005 của Bộ Chính trị (khoá IX) về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong QĐND Việt Nam, Hà Nội.2005.
[2] . ĐUQSTW, Nghị quyết số 513-NQ/ĐUQSTW, ngày 17 tháng 11 năm 2005 của Đảng uỷ Quân sự Trung ương (nay là Quân uỷ Trung ương) lãnh đạo triển khai tổ chức thực hiện Nghị quyết số 51-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá IX) về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong QĐND Việt nam, Hà Nội.2005.
[3] .Đảng uỷ Trường Sĩ quan Chính trị, Tài liệu sơ kết thực hiện Nghị quyết 51-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá IX), Bắc Ninh 2013, tr.9
[4] . Đảng Cộng sản Việt Nam , Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.82.
[5] . Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2001, t9, tr. 285
[6] . Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2001, t5, tr. 393
[7] . Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2001, t5, tr. 392
Thứ Năm, 5 tháng 12, 2013
Thỏa thuận đột phá hay sai lầm lịch sử
Tổng thống Obama phát biểu như thế tại Nhà Trắng
ngay sau khi đạt được thỏa thuận hạt nhân giữa Iran và Nhóm P5+1 (Mỹ, Nga, Anh,
Pháp, Trung Quốc và Đức) được ký kết tại Geneva ngày 24/11, sau bốn ngày đàm
phán "marathon".
Thỏa thuận cùng thắng
Trước hết, cần khẳng định đây là thỏa thuận cùng
thắng của Nhóm P5+1 và Iran. Theo nội dung chính của thỏa thuận, Iran được phép
tiếp tục làm giàu uranium, nhưng phải ngừng toàn bộ hoạt động làm giàu uranium
trên 5% trong sáu tháng; làm "loãng" kho uranium từ mức độ 20% (gần mức sản xuất
vũ khí) xuống mức dưới 5%; không sản xuất và lắp đặt thêm máy ly tâm; ngừng quá
trình chạy thử lò phán ứng tại cơ sở Arak; và cho phép các chuyên gia của Cơ
quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) tới thanh sát thường xuyên.
Đồng thời, nhóm P5+1 sẽ thành lập Uỷ ban hỗn hợp
để làm việc với IAEA và giám sát việc thực thi thỏa thuận này, trong đó có quy
mô quân sự tiềm tàng trong chương trình hạt nhân Iran cũng như các hoạt động tại
cơ sở Parchin của Tehran. Như vậy, Iran vẫn giữ được quyền làm giàu uranium,
điều mà nước này cương quyết bảo vệ trong mọi cuộc đàm phán từ trước đến
nay.
Để đổi lại sự nhân nhượng từ phía Iran, Nhóm P5+1
sẽ nới lỏng các biện pháp trừng phạt Iran có tổng giá trị khoảng 7 tỉ USD và sẽ
không áp đặt thêm bất cứ biện pháp trừng phạt mới nào liên quan tới chương trình
hạt nhân của nước này trong sáu tháng. Iran hy vọng đây sẽ là bước đầu tiên đi
đến chấm dứt toàn bộ các lệnh trừng phạt vốn đang làm nền kinh tế nước này bị
kiệt quệ.
Đối với Mỹ và phương Tây, thỏa thuận này sẽ giúp
kiểm soát chương trình hạt nhân của Tehran bằng biện pháp hoà bình mà không phải
sử dụng biện pháp quân sự chứa đầy rủi ro. Riêng với chính quyền Obama, việc ký
kết thỏa thuận hạt nhân sẽ giúp cải thiện quan hệ giữa Mỹ và Iran sau 35 năm
đóng băng, nhờ đó các công ty của Mỹ có thể đầu tư vào lĩnh vực dầu lửa nhiều
tiềm năng và các lĩnh vực kinh tế khác. Tại Trung Đông, Washington hy vọng sự
can dự tích cực với Tehran sẽ giúp giảm sự ủng hộ của Iran với các nhóm Hồi giáo
thân Iran và nhờ đó, giúp đem lại ổn định hơn cho Trung Đông cũng như an ninh
cho Israel.
Nhiều hoài nghi
Trong bối cảnh tiến trình hoà bình Trung Đông đang
gặp nhiều trắc trở, việc đạt được thỏa thuận hạt nhân của Iran, cũng như thỏa
thuận về Syria trước đó là một dấu hiệu tích cực. Các nhà lãnh đạo thế giới như
Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki Moon, các nhà lãnh đạo Liên minh châu Âu, Trung
Quốc, Nga… đã hoan nghênh thỏa thuận có tính "đột phá" và "lịch sử" này.
Tuy nhiên, thỏa thuận hạt nhân Iran vẫn còn chứa
đựng nhiều hoài nghi. Trong nội bộ Mỹ, nhiều thành viên cao cấp của Đảng Dân chủ
và Cộng hoà đã lên tiếng phản đối. Nhiều nghị sĩ hai đảng đề nghị đưa thêm các
biện pháp trừng phạt kinh tế mới đối với Iran vào phiên họp Quốc hội ngày 9/12
tới bởi họ nghi ngờ về các cam kết của Iran, cho rằng Iran sử dụng thỏa thuận để
"câu giờ".
Ngay tại Trung Đông, hai đồng minh chủ chốt của Mỹ
là Israel và Saudi Arabia lại cho rằng thỏa thuận này là "sai lầm lịch sử". Điều
họ lo ngại nhất là Iran vẫn "âm thầm" phát triển vũ khí hạt nhân, mở rộng ảnh
hưởng ra toàn khu vực Trung Đông và đe doạ sự tồn vong của họ trước sự bất lực
của cả Mỹ và phương Tây.
Còn với các thành viên P5+1 khác, mặc dù nhất trí
về các điều khoản trong thỏa thuận sơ bộ này nhưng vẫn còn nhiều câu hỏi được
đặt ra, đáng chú ý nhất là tính chất mập mờ của từ ngữ trong thỏa thuận, để cho
các bên giữ được thể diện và "cùng thắng". Thực tế cho thấy thỏa thuận hạt nhân
của Iran mới chỉ là bước khởi đầu, và các bên sẽ xem xét lại trong 6 tháng tới.
Do đó còn rất nhiều việc để làm trên con đường đi tới một giải pháp toàn diện
cho vấn đề hạt nhân Iran.
Điều đáng lưu ý là thoả thuận đạt được chưa đầy
bốn tháng sau khi tân Tổng thống Iran Husan Rouhani cam kết thay đổi mối quan hệ
của Iran với thế giới sau khi nhậm chức. Xét từ bất kỳ góc độ nào, thỏa thuận
hạt nhân Iran là bước đi đột phá sau hàng chục năm bế tắc và là bước đi quan
trọng đầu tiên trên bước đường tiến tới việc thiết lập quan hệ mang tính xây
dựng giữa Iran và các cường quốc phương Tây sau 35 năm thù địch và căng thẳng.
Nguyễn Hoàng Nhật
Nguồn: http://www.tgvn.com.vn/Item/VN/BinhLuan/2013/11/F0450A8B7E0D0B32/ |
Chuyến thăm hóa giải căng thẳng Đông Á
(Toquoc)- Ông Biden sẽ nỗ lực hết sức nhằm kiềm chế các căng thẳng về mặt quân sự với Trung Quốc trong khi vẫn tìm cách hỗ trợ đồng minh Nhật Bản.
Ngày 2/12, Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden tới Tokyo, bắt đầu chuyến công du châu Á kéo dài một tuần nhằm tái khẳng định các cam kết của chính quyền Barack Obama đối với khu vực.
Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh căng thẳng khu vực đang gia tăng. Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc hiện đang vướng vào một cuộc tranh cãi liên quan đến hai hòn đảo nhỏ mà cả Tokyo và Bắc Kinh cùng tuyên bố chủ quyền. Các cuộc khẩu chiến càng trở nên căng thẳng và đe dọa châm ngòi đối đầu quân sự sau khi Trung Quốc vào ngày 23/11 tuyên bố thiết lập “vùng nhận dạng phòng không” (ADIZ), với ranh giới bao trùm cả các đảo đá tranh chấp.
Sứ mệnh của ông Biden sẽ là kiềm chế các căng thẳng về mặt quân sự với Trung Quốc trong khi vẫn tìm cách hỗ trợ đồng minh Nhật bản làm đối trọng với quốc gia ngày càng lớn mạnh này. Bên cạnh đó, chuyến thăm Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc của ông Biden còn nhằm mục đích đập tan các chỉ trích cho rằng Mỹ đang “xao nhãng” châu Á do bị phân tâm bởi các diễn biến chính trị trong nước và tại khu vực Trung Đông.
Trước thềm chuyến thăm, Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Susan Rice khẳng định: “Tái cân bằng hướng trọng tâm vào châu Á Thái Bình Dương vẫn là nền tảng trong chính sách ngoại giao của chính quyền Obama”.
Với sứ mệnh đó, tại Tokyo, ông Biden hội đàm với Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe về hàng loạt vấn đề, từ hợp tác song phương, thúc đẩy đàm phán về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) tới các vấn đề an ninh khu vực, trong đó có vùng biển Hoa Đông. Ông Biden sẽ trấn an Nhật Bản rằng liên minh quân sự Nhật – Mỹ, được hình thành từ những năm 50 của thế kỷ trước, vẫn còn hiệu lực. Và có thể ông Biden sẽ một lần nữa tái khẳng định Senkaku/Điếu Ngư, quần đảo đang là tranh chấp giữa Trung Quốc và Nhật Bản, nằm trong phạm vi của Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật. Tuy nhiên, giới quan sát cho rằng, ông Biden sẽ nỗ lực kiềm chế căng thẳng liên quan giữa Washington và Bắc Kinh trong các cuộc gặp dự kiến diễn ra vào cuối tuần này.
Tại Seoul, sau cuộc hội đàm với các nhà lãnh đạo Hàn Quốc về chương trình hạt nhân của CHDCND Triều Tiên, thúc đẩy buôn bán, ông Biden còn có bài phát biểu về quan hệ Mỹ-Hàn Quốc và an ninh bán đảo Triều Tiên tại Trường Đại học Yonsai.
Trong chặng dừng chân tại Bắc Kinh, Phó Tổng thống Joe Biden sẽ có các cuộc hội đàm với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Phó Chủ tịch Lý Nguyên Triều và Thủ tướng Lý Khắc Cường. Các cuộc gặp của ông Joe Biden với các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ tập trung vào các vấn đề kinh tế, buôn bán, tiền tệ, bán đảo Triều Tiên, các điểm nóng của khu vực và thế giới.
Một quan chức chính quyền Tổng thống Obama giấu tên cho biết: “Điều quan trọng là Mỹ sẽ tiếp tục khẳng định thông điệp nhấn mạnh chúng tôi đang và sẽ luôn hỗ trợ các đồng minh, và sẽ luôn có cơ hội để hai cường quốc như Mỹ và Trung Quốc cùng xây dựng một mối quan hệ kiểu mới trong thế kỷ 21 này”.
Mặc dù Washington tuyên bố không đứng về bên nào trong các tranh chấp chủ quyền lãnh hải, song Mỹ từng nhiều lần thừa nhận quyền kiểm soát các hòn đảo tranh chấp là của Tokyo và nói rằng hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật có hiệu lực đối với khu vực này, thái độ được cho là nhằm phản ứng trước các nỗ lực của phía Trung Quốc trong việc thách thức sự hiện diện của Mỹ trong khu vực.
Chuyên gia về châu Á Bonnie Glaser, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế, một viện nghiên cứu chính sách, nói: “Tôi cho rằng Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden nhiều khẳ năng sẽ công khai tái khẳng định cam kết của Mỹ đối với hiệp ước quốc phòng song phương và nhấn mạnh rằng các hòn đảo tranh chấp nằm trong phạm vi Điều 5 của hiệp ước này, theo đó, Mỹ thừa nhận quyền kiểm soát của Tokyo đối với khu vực và phản đối mọi hành động vi phạm quyền lợi này. Điều cần thiết là ông ấy sẽ phát biểu quan điểm này một cách công khai”.
Nhiều người cho rằng Phó Tổng thống Mỹ sẽ đưa ra các đề xuất để giải quyết cuộc khủng hoảng hiện nay trong cuộc gặp với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình ngày 4/12. Ông Biden có thể sẽ truyền tải thông điệp đến Trung Quốc rằng việc họ xác định ADIZ hoàn toàn không phải là một bước đi khôn ngoan và có thể kéo theo các hệ lụy không mong muốn, song các bên có thể tìm hướng giải quyết vấn đề này, và có một giải pháp đó là chỉ cần Trung Quốc không bắt các quốc gia phải tuân thủ tất cả các quy định khắt khe của vùng nhận dạng này.
Giới quan sát cho rằng, ông Biden sẽ vận dụng những kinh nghiệm và hiểu biết, cùng với mối quan hệ cá nhân sẵn có của ông với Chủ tịch Tập Cận Bình, Trung Quốc chắc hẳn sẽ đánh giá nghiêm túc những nỗ lực và đề xuất của ông Biden. Trung Quốc có thể coi ông Biden là “người môi giới công bằng”.
Tuy nhiên, theo Giáo sư Giả Khánh Quốc, Phó Giám đốc Trường Nghiên cứu Quốc tế thuộc Đại học Bắc Kinh, một giải pháp ngay lập tức cho vấn đề ADIZ là khó khả thi. “Trung Quốc sẽ nói rằng hành động này của họ là hoàn toàn bình thường, cũng tương tự như của 20 quốc gia khác. Bởi vậy, tại sao người ta phải phản ứng gay gắt?”
Bất chấp những bế tắc về mặt quân sự, các quan chức Mỹ cho rằng sau khi ông Tập Cận Bình lên nắm quyền tại Trung Quốc, hợp tác song phương Mỹ - Trung trong hàng loạt vấn đề từ biến đổi khí hậu cho tới tham vọng hạt nhân Bắc Triều Tiên ngày càng chặt chẽ.
Rõ ràng mối quan hệ Mỹ-Trung sẽ được giới truyền thông và học giả chú ý, khi cạnh tranh Mỹ - Trung sẽ là đặc điểm chính trị nổi bất trong giai đoạn hiện nay. Vì thế, hai bên sẽ nỗ lực để tìm ra những cách thức để hai cường quốc có thể xây dựng một kiểu quan hệ mới trong thế kỷ 21./.
Việt Nam-HRC: Sự tín nhiệm cao của cộng đồng quốc tế
(Toquoc)- Kết quả bỏ phiếu ghi nhận những thành tựu của Việt Nam, bác bỏ các tiêu chuẩn kép về dân chủ nhân quyền.
Sáng ngày 12/11/2013, Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 68 bỏ phiếu bầu 14 nước thành viên mới của Hội đồng Nhân quyền (HRC) nhiệm kỳ 2014-2016. Với 184/192 phiếu, Việt Nam đã trúng cử với số phiếu cao nhất và lần đầu tiên trở thành thành viên HRC.
Các nhân viên LHQ đi thu phiếu bầu 14 thành viên mới của HĐNQ (nguồn: TTXVN)
Việc Việt Nam trúng cử với số phiếu cao để trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền là sự kiện quan trọng nhưng không bất ngờ. Kết quả bỏ phiếu ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với những thành tựu của Việt Nam trong việc đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền của người dân trên tất cả các lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, giáo dục, tôn giáo, tín ngưỡng, bình đẳng giới… Việt Nam không có sự kỳ thị sắc tộc và xung đột tôn giáo.
Một trong các quyền cao nhất là quyền kinh tế. Đời sống kinh tế của nhân dân gần đây gặp nhiều khó khăn hơn trước, nhưng người dân được tạo điều kiện để “tự cứu mình”. Một xã hội đang trở nên năng động hơn, vượt khó, không chịu để cái khó bó cái khôn.
Bà Pratibha Mehta, Điều phối viên thường trú Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, đánh giá: “Việt Nam là một trong những quốc gia đi đầu về thực hiện mục tiêu Thiên niên kỷ và là một trong 6 quốc gia có những thành tựu đáng kể trong việc xóa đói giảm nghèo với tỷ lệ đói nghèo giảm còn 1/3. Năm 2002, tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam là 29%, nhưng đến năm 2012 chỉ còn khoảng 10%. Việt Nam cũng có những thành tích tốt trong giáo dục cơ bản, chỉ số về y tế, giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ và trẻ sơ sinh. Tôi nghĩ về tổng thể thành tích này rất đáng được ca ngợi và ghi nhận ở Liên Hợp Quốc cũng như toàn cầu”.
Việc Việt Nam trúng cử với số phiếu cao là kết quả không thể bác bỏ của sự đúng đắn của đường lối đối nội, đối ngoại độc lập, tự chủ của Đàng và Nhà nước ta. Là sự xác tín cho các nguyên tắc của quốc gia.
Chúng ta đang chứng kiến thế giới sống trong một thời kỳ đầy khủng hoảng và biến động. Trong thời đại chiến tranh điện tử và chống khủng bố quốc tế, các cá nhân dường như mất quyền tự do tuyệt đối và chủ quyền quốc gia bị xâm phạm bởi các hoạt động chiến tranh mạng và nghe lén. Cả đến những giao dịch riêng tư như điện thoại và thư điện tử cũng bị kiểm soát.
Trong khi không ít quốc gia siết chặt kiểm soát Internet và truyền thông, Việt Nam là nước rộng mở cho việc truy cập internet và các mạng xã hội.
Trong nhiệm kỳ 3 năm sắp tới làm thành viên Hội đồng Nhân quyền, Việt Nam sẽ có cơ hội đóng góp trực tiếp một cách xây dựng và trách nhiệm vào công cuộc bảo vệ và thúc đẩy các giá trị quyền con người trên phạm vi toàn thế giới, cũng như có điều kiện chia sẻ và học hỏi những kinh nghiệm tốt từ bạn bè quốc tế nhằm đảm bảo sự thụ hưởng ngày càng tốt hơn các quyền của mỗi người dân Việt Nam.
Việc các nước như Cuba, Trung Quốc, Nga, Saudi Arabia, Việt Nam, Algeria..., cùng với Việt Nam, được bầu vào HRC là sự bác bỏ các tiêu chuẩn kép và những nỗ lực dai dẳng của các cường quốc phương Tây sử dụng HRC cho các mục đích chính trị. Cuộc bỏ phiếu lần này dường như cũng là câu trả lời trực tiếp của cộng đồng thế giới trước vụ phanh phui nghe lén của Mỹ đang lộng hành trên thế giới, đẩy ngọn cờ dân chủ nhân quyền cuả Mỹ vào thế hạ phong.
Nói như thế không có nghĩa là chúng ta tự thỏa mãn chủ quan rằng mọi việc ở Việt Nam đều đã tốt. Biết người đã khó, biết mình còn khó hơn. Mỗi tổ chức và cá nhân có trách nhiệm cần phải nỗ lực cố gắng không ngừng để cải thiện điều kiện sống tình thần của người dân. Xã hội cần có kỷ cương nhưng cũng chống lại sự lạm quyền. Ta tự tin hơn, đồng thời phải tiếp tục cố gắng phấn đấu để thực hiện tốt hơn nữa các tôn chỉ mục đích nhân quyền mà Liên hợp quốc đề ra, cũng là những giá trị nhân bản không thể thiếu được./.
Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2013
Các lựa chọn của Toà án trước vụ kiện Trung Quốc
(Toquoc)- Vụ Philippines kiện Trung Quốc sẽ có tác động chính trị nghiêm trọng: Trung Quốc và Tòa trọng tài sẽ xử lý như thế nào?
Trong vụ khiếu kiện Trung Quốc liên quan vấn đề Biển Đông tại Tòa trọng tài quốc tế về Luật biển, Philippines muốn có một phán quyết trong đó có tuyên bố rằng yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc tại Biển Đông không phù họp với Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982 (UNCLOS) và do đó không có giá trị. Philippines yêu cầu Tòa phân xử tư cách pháp lý của một vài thực thể nhất định tại Biển Đông và các hoạt động chấp pháp của Trung Quốc đã đi ngược với UNCLOS.
Phán quyết của vụ kiện sẽ có tác động chính trị nghiêm trọng. Trung Quốc thì cay cú. Các trọng tài thì đứng trước một mớ bòng bong chính trị và pháp lý.
Trung Quốc có thể phản ứng như thế nào?
Philippines được đề nghị phải nộp đơn yêu cầu với bản khiếu nại đầy đủ trước ngày 30/3/2014. Nếu Trung Quốc từ chối đáp lại, sau đó phiên tòa sẽ tiếp tục thảo luận về cả thẩm quyền tòa án cũng như tính pháp lý của vụ kiện. Vụ kiện này có thể đi đến những phán quyết khác nhau và mỗi phán quyết lại có các hệ quả riêng.
Trung Quốc có thể “tuyên bố bãi ước” nghĩa là rút khỏi Công ước Luật Biển. Việc “tuyên bố bãi ước” sẽ có hiệu lực sau một năm đưa ra thông báo và Trung Quốc vẫn phải tuân thủ theo phán quyết của Tòa án trong vụ Philippines kiện họ. Điều này cũng gây thiệt hại cho Trung Quốc nhiều mặt.
Một giả thiết khác, Trung Quốc có thể thay đổi lập trường và tham gia vào vụ kiện hoặc chí ít là khiếu kiện về thẩm quyền của hội đồng trọng tài. Không cần quan tâm đến phán quyết cuối cùng, Trung Quốc có thể tìm cách đàm phán về một thỏa thuận có lợi hơn cho phía Philippines, trong đó có việc khai thác chung. Hiện tại Trung Quốc dường như đang cố gắng cô lập và thuyết phục Philippines từ bỏ vụ kiện, và đổi lại cho việc Philippines từ bỏ vụ kiện sẽ là một thỏa thuận khai thác chung tại Bãi Cỏ Rong. Điều này tuy rất khó nhưng vẫn có khả năng xảy ra, do theo thời gian, áp lực ngoại giao và các chi phí chính trị cũng như phí tổn kinh tế của Vụ kiện sẽ tăng dần. ASEAN trong trường hợp này có thể đóng vai trò trung gian.
Một giả thiết khác là Trung Quốc sẽ làm rõ yêu sách của họ bằng việc nói rằng đường chín đoạn chỉ thể hiện chủ quyền đối với các đảo và đá mà đường này bao quanh. Tiếp theo đó, Trung Quốc có thể nói rằng nước này yêu sách các vùng EEZ và thềm lục địa từ những thực thể trên và rằng đường biên giới giữa những gì nằm trong quyền tài phán của họ và của các quốc gia ven biển tại Đông Nam Á là đường trung tuyến giữa các đảo được xác định theo pháp luật và đất liền. Khu vực này cũng không khác nhiều so với khu vực được bao quanh bởi đường chín đoạn.
Hiện tại, việc Trung Quốc từ chối tham gia và không tuân thủ với phán quyết nhiều khả năng sẽ khiến danh tiếng và thẩm quyền của tòa án nói riêng và của luật pháp quốc tế nói chung bị suy giảm. Nhưng Trung Quốc cũng sẽ không được các nước khác tôn trọng.
Trọng tài có thể sẽ phán quyết như thế nào?
Có thể thấy, hội đồng trọng tài đang rơi vào thế “tiến thoái lưỡng nan”.
Đầu tiên hội đồng trọng tài phải quyết định xem họ có thẩm quyền tiếp nhận vụ kiện hay không và liệu khiếu nại có được dựa hoàn toàn trên thực tế và luật pháp hay không. Những người ủng hộ Trung Quốc cho rằng trong khiếu nại của Philippines có nhiều sai lệch trên thực tế và có nhiều vấn đề vượt ra ngoài quyền hạn của Tòa trọng tài; rằng Philippines đã không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đàm phán vấn đề trên bình diện song phương như đã được quy định trong DOC. Philippines phản bác rằng khiếu nại của họ nhằm mục đích cụ thể vào vấn đề diễn giải và áp dụng các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia theo như UNCLOS, và do đó khiếu nại không thể bị bác bỏ.
Nếu hội đồng trọng tài quyết định rằng họ không có thẩm quyền, những người theo chủ nghĩa hiện thực sẽ có lý do để phê phán rằng “luật pháp quốc tế là vũ khí của chính trị”, và rằng luật pháp quốc tế được định hình bởi các cường quốc và luôn thiên vị những nước này. Và như thế luật pháp quốc tế đã bị xem thường.
Còn nếu hội đồng trọng tài quyết định rằng họ có thẩm quyền và đưa ra phán quyết về yêu sách đường chín đoạn và nếu Trung Quốc không tuân thủ theo phán quyết, Biển Đông sẽ càng bất ổn chính trị và pháp lý.
Do đó, nhiều khả năng Tòa sẽ đưa ra một phán quyết có tính dung hòa. Họ có thể quyết định họ có quyền tài phán và sau đó đề xuất một phương án thỏa hiệp trong đó công nhận rằng Trung Quốc có “danh nghĩa lịch sử” đối với một phần nguồn tài nguyên tại khu vực tranh chấp, nhưng Bắc Kinh cũng phải nhân nhượng bằng cách công nhận phần tài nguyên của phía Philippines.
Trong khi đó, Trung Quốc và Philippines có thể xem xét một thỏa thuận chung “không sử dụng vũ lực”. Khi bước này được thực hiện, Trung Quốc và Philippines có thể thổi luồng sinh khí mới cho COC.
Trung Quốc vừa gây sức ép vừa có những biện pháp "dỗ dành" để Philippines tự rút đơn kiện. Có tin rằng Tập đoàn dầu khí Philippines Philex đang đàm phán với đối tác phía Trung Quốc là CNOOC về một khả năng khai thác chung, với sự nhượng bộ nhất định có lợi cho Philippines. Điều này chưa có gì là chắc chắn.
Trong chuyến thăm Đông Nam Á tháng trước, Thủ tướng Trung Quốc đề xuất việc ký kết “Điều ước hợp tác láng giềng hữu nghị giữa các nước ASEAN và Trung Quốc”. Nhưng nếu biển Đông Nam Á tiếp tục bất ổn định, an ninh trên biển không đảm bảo, Trung Quốc tiếp tục khủng bố ngư dân các nước, một điều ước như vậy có đáng để các nước Đông Nam Á xem xét không? Tất nhiên là không rồi vì nó quá vô lý. Trung Quốc đang rất cần Đông Nam Á không kém gì Đông Nam Á cần Trung Quốc./.
Lưu Việt
Mỹ, Nhật phản đối Trung Quốc lập khu vực phòng không
(Toquoc)- Nhật Bản cho rằng việc Trung Quốc lập khu vực phòng không trên biển Hoa Đông là một động thái "rất nguy hiểm". Mỹ tái khẳng định quần đảo Senkaku/Điếu Ngư thuộc phạm vi thực hiện của Hiệp ước quốc phòng song phương Mỹ - Nhật
Khu vực Trung Quốc tuyên bố thuộc "vùng phòng không" trên biển Hoa Đông (màu đỏ)
Bộ Quốc phòng Trung Quốc ngày 23/11 công bố việc lập Khu vực Phòng không trên biển Hoa Đông, kèm theo các quy định áp dụng tại khu vực này.
Theo đó, tất cả các máy bay qua lại Khu vực Phòng không, gồm cả quần đảo Điếu Ngư, mà Nhật Bản gọi là Senkaku, phải thông báo trước kế hoạch bay; hồi đáp "lập tức với thái độ chừng mực" qua sóng radio khi nhận được các yêu cầu nhận dạng từ nhà chức trách Trung Quốc; giữ liên lạc trong suốt quá trình bay; máy bay phải gắn logo và cờ hiệu rõ ràng. Các quy định trên có hiệu lực từ 10h sáng ngày 23/11 và Trung Quốc sẽ "đưa ra các biện pháp phòng thủ khẩn cấp" nếu các máy bay bay qua khu vực trên không tuân thủ quy định.
Cùng trong ngày 23/11, Trung Quốc đã cho nhiều máy bay chiến đấu tuần tra ở khu vực phòng không rộng lớn trên biển Hoa Đông nằm giữa Hàn Quốc và Đài Loan.
Khu vực Trung Quốc tuyên bố thuộc "vùng phòng không" trên biển Hoa Đông (màu đỏ)
Mỹ, Nhật Bản ngay lập tức có những phản ứng mạnh mẽ với động thái trên.
Nhật Bản cho rằng việc Trung Quốc lập khu vực phòng không trên biển Hoa Đông là một động thái "rất nguy hiểm".
Phát biểu với báo giới, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera cho biết: “Trung Quốc bất ngờ thông báo lập Khu vực Phòng không trên biển Hoa Đông. Tôi cho rằng, việc này có thể dẫn đến những tình huống hết sức nguy hiểm”. Ông Onodera cho rằng Chính phủ Nhật Bản cần có hành động để phản ứng vì có nhiều chuyến bay dân sự bay qua khu vực này.
Bộ Ngoại giao Nhật Bản dự kiến triệu Đại sứ Trung Quốc Trình Vĩnh Hoa trong ngày 25/11 để bày tỏ lập trưởng của Nhật Bản về vấn đề trên.
Trong khi đó, ông Junichi Ihara, Cục trưởng Cục châu Á và Hải dương của Bộ Ngoại giao Nhật Bản đã bày tỏ sự phản đối tới đại sứ quán Trung Quốc. Ông Ihara tuyên bố rằng Nhật Bản sẽ “không bao giờ chấp nhận khu vực phòng không do Trung Quốc lập ra” bao gồm cả nhóm đảo Senkaku.
Ông Ihara cũng cho rằng động thái “vô cùng nguy hiểm” này của Trung Quốc sẽ làm leo thang căng thẳng trong quan hệ giữa 2 nước.
Bộ Ngoại giao Mỹ, Hội đồng An ninh Quốc gia và Lầu Năm Góc cũng bày tỏ quan ngại về những căng thẳng mới xuất hiện ở vùng biển Hoa Đông, đặc biệt là việc Trung Quốc thành lập vùng phòng không và tiến hành cuộc tuần tra đầu tiên ở khu vực này.
“Hành động đơn phương này là một phần nỗ lực nhằm thay đổi tình hình thực tế trên biển Hoa Đông. Các hành động leo thang sẽ chỉ làm gia tăng căng thẳng trong khu vực và tạo ra nguy cơ xảy ra biến cố”, Ngoại trưởng Kerry phát biểu tại Geneva trong lúc tham gia vào các cuộc đàm phán nhằm tiến tới một thỏa thuận về chương trình hạt nhân của Iran.
Ông Kerry cho hay Mỹ đã yêu cầu Trung Quốc “cẩn trọng và kiềm chế” đồng thời cảnh báo Bắc Kinh không được thực thi vùng phòng không.
Trong khi đó, Bộ trưởng Quốc phòng Hagel tái khẳng định rằng quần đảo Senkaku/Điếu Ngư thuộc phạm vi thực hiện của Hiệp ước quốc phòng song phương Mỹ - Nhật và điều đó có nghĩa Washington sẽ bảo vệ đồng minh Tokyo nếu khu vực này bị tấn công.
“Chúng tôi đang liên lạc sát sao với các đồng minh và đối tác của mình trong khu vực bao gồm Nhật Bản. Chúng tôi vẫn kiên định với những cam kết của mình với các đồng minh và đối tác”, ông Hagel khẳng định.
Bộ trưởng Hagel tuyên bố Mỹ sẽ không công nhận những gì Trung Quốc thông báo về vùng phòng không.
Hiện Nhật Bản, Trung Quốc và Đài Loan cùng tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư trên biển Hoa Đông, thuộc Vùng phòng không mà Trung Quốc vừa tuyên bố.
Mỹ vẫn khẳng định trung lập về vấn đề tranh chấp chủ quyền nhưng công nhận quyền kiểm soát thực tế của Nhật Bản./.
Khánh An (Tổng hợp)
CUỘC TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG: NHÌN TỪ GÓC ĐỘ QUAN HỆ QUỐC TẾ VÀ CÔNG PHÁP QUỐC TẾ
Ailien T. Tran
nghiencuubiendong.vn, Thứ sáu, 26 Tháng 2 2010 15:51
“[L]egal scholars began to acknowledge and respond to the challenge mounted by the skeptics who viewed any reliance on international law as so idealistic as to not simply unrealistic, but dangerous.”
Tạm dịch:
“Các học giả về luật bắt đầu nhận ra và trả lời sự khó khăn chồng chất từ các nhà phê bình rằng bất cứ sự dựa dẫm nào vào Công pháp Quốc tế đều không những mang tính chất lý tưởng hay đơn giản là không thực tế, mà còn nguy hiểm.”
Hathaway, Oona A. & Koh, Harold Hongju,
Foundations of International Law and Politics, Foundation Press, New York, New York, 2005
Tôi xin phân tích về cuộc tranh chấp Biển Đông dựa trên cơ sở lý thuyết về Quan hệ quốc tế và Công pháp quốc tế, và từ đó đưa ra đề nghị giải pháp.
Vấn đề Biển Đông mang tính chiến lược quốc gia vì nó là một trong những bước đầu trong công cuộc lấn chiếm thành hệ thống của Trung Quốc. Đây là một vấn nạn về quốc phòng nhưng cũng là cơ hội để cũng cố quốc nội. Nó có thể trở thành chất XÚC TÁC để đưa đến đoàn kết và bình ổn. Vì đây là mối lo lắng chung cho tất cả người Việt trong nước và hải ngoại, nó có thể giúp cho chúng ta có lý do để gác lại những bất đồng chính kiến để cùng nhau chống lại kẻ thù chung. Sự sát cánh này sẽ giúp cho hai bên hiểu nhau hơn, đến gần nhau hơn trong công tác nghiên cứu và bàn thảo kế hoạch, và từ đó sẽ dễ dàng hơn trong những công trình hợp tác phát triển kinh tế, giáo dục và hiện đại hóa đất nước. Nhưng ngược lại, vấn đề Biển đông, ngoài bản chất là hiểm họa quốc phòng, còn thể là chất NỔ dẫn đến sự chia rẽ và biến động trong nước. Các phe đối nghịch sẽ lợi dụng cơ hội này để bôi nhọ chế độ là yếu hèn và “bán nước”. Những luận điệu này sẽ trỡ nên trơ trẽn nếu chúng ta biết xử trí vấn đề Biển Đông một cách khéo léo và thích đáng. Ngược lại, chúng sẽ trỡ nên rất thuyết phục nếu như chính quyền cứ mãi im lìm và không có hành động rõ ràng. Đương nhiên, khi những luận điệu đối nghịch trở nên thuyết phục đến cực điểm, chúng trỡ thành một vũ khí lợi hại cho phe đối nghịch đễ gây biến động trong nước. Trung Quốc đương nhiên không bỏ qua cơ hội này để tiến sâu hơn và hành động mạnh mẽ hơn trong quá trình “gậm nhấm” hoặc lấn áp chúng ta. Như vậy, cùng một lúc, chúng ta phải đương đầu với giặc trong lẫn giặc ngoài. Chúng ta có giữ nổi không? Chắc chắn là không. Đây không còn là sự lựa chọn khéo léo nữa mà là chiến lược. Một là độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, phát triển lâu dài, và tương lai rõ ràng. Hai là bị thôn tính và đồng hóa bởi Trung Quốc, mất tất cả, và tương lai mờ mịt.
Phân tích cuộc tranh chấp Biển Đông thì không thể bỏ qua thái độ và hành động của Trung Quốc, sự phản ứng của Hoa Kỳ, Nhật Bản và Nam Hàn, cũng như vai trò của Tổ chức ASEAN, tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO) và Liên Hiệp Quốc (LHQ). Trong việc tranh chấp lãnh thổ, Việt Nam không phải là nước duy nhất chịu đựng sự ngang ngược của Trung Quốc. Xung quanh biên giới Trung Quốc, hầu như tất cả lân bang đều phải chịu sự xâm lấn của Bắc Kinh, trong đó có Nga, Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan, Ấn độ, Mongolia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Afghanistan, Pakistan. Trong bối cảnh địa chính trị này, rõ ràng là Trung Quốc đang theo đuổi một kế hoạch toàn cầu, trong đó Trung Quốc muốn gia tăng ảnh hưởng địa chính trị trong khu vực Trung Á, Đông Á, và Đông Nam Á. Biển Đông chỉ là một phần trong kế hoạch này, nhưng là một phần rất quan trọng. Tại sao? Vì Biển Đông là nơi có trữ lượng dầu khí ước tính lớn thứ tư trên toàn thế giới sau Kuwait, là địa điểm chiến lược về quân sự và ảnh hưởng địa chính trị toàn cầu. Khống chế Biển Đông sẽ khống chế được toàn khu vực Châu Á Thái Bình Dương (CATBD) và làm chủ tình hình địa chính trị cũng như làm lệch cán cân quyền lực trong khu vực và toàn thế giới. Bên cạnh đó, Biển Đông cũng là nơi giao tiếp của rất nhiều đường vận chuyển tàu biển tấp nập bậc nhất trên thế giới. Eo biển Malaca tiếp giáp với Biển Đông là nơi mà 80% năng lượng của Nhật Bản được chuyển tải qua lại, và 70% giao thương của Hoa Kỳ, Nam Hàn, và Cộng đồng Châu Âu vào khu vực CATBD cũng qua lại eo biển này. Đương nhiên, Hoa Kỳ, Nam Hàn và Nhật Bản sẽ phải phản ứng lại thái độ của Trung Quốc ở Biển Đông để bảo vệ quyền lợi về kinh tế và ảnh hưởng địa chính trị của họ. Về quân sự, Biển Đông rất quan trọng đối với Nam Hàn, Nhật Bản và nhất là Đài Loan vì ba nước này là đổng minh của Hoa Kỳ và họ cần sự hổ trợ về quân sự của Hoa Kỳ để giữ yên bờ cõi trước họa xâm lăng từ Trung Quốc. Ngoài ra, Biển Đông cũng không kém phần quan trọng cho cộng đồng ASEAN vì vùng biển này là “ao nhà” của họ. Các nước ASEAN đều phải đối phó với áp lực của cộng đồng người Hoa và sự gắn bó với cội nguồn của họ nên chính quyền các nước ASEAN lại càng e ngại thái độ của Trung Quốc hơn.
Bối cảnh này cho thấy vấn đề Biển Đông, về bản chất, là một vấn đề không của riêng Việt Nam hay của riêng các nước trong vùng mà là một vấn đề quốc tế liên quan đến nhiều cường quốc trên thế giới. Đây là điều đáng mừng cho Việt Nam vì “ngao cò tranh nhau ngư ông hưởng lợi.” Thế nhưng nếu chúng ta không khéo léo tình thế sẽ trở thành “trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết.” Sự khéo léo này là chiến lược sống còn của Việt Nam.
Phân tích cuộc tranh chấp Biển Đông dựa trên lý thuyết quan hệ quốc tế để giải thích thái độ và hành động của các quốc gia thì tính chất quốc tế của vấn đề càng hiện rõ hơn. Lý thuyết dựa trên quyền lợi giải thích bằng Chủ nghĩa Thực tiễn (Realism), chủ nghĩa Chủ nghĩa Định chế (Institutionalism) và Chủ nghĩa Tự do (Liberalism). Lý thuyết dựa trên Tập quán (Norm-based theories of state behavior) giải thích bằng Chủ nghĩa Cấu trúc (Constructivism), Lý thuyết Công bằng và Chính Danh (Theories of Fairness and legitimacy), Lý thuyết Quy Trình pháp lý (Legal process theories).
Khi nói đến quyền lợi, chúng ta không thể bỏ qua Lý thuyết Cuộc chơi (game theory) hoặc thường được áp dụng qua khái niệm “Vấn nạn của phạm nhân” (Prisoner’s dilemma). Nói nôm na, khái niệm này cũng đồng nghĩa với câu người Việt chúng ta thường nói “đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”. Khi cảnh sát tách hai phạm nhân ra để hỏi cung riêng và nói rằng nếu người này khai ra hành động của người kia, thì người này sẽ được tha bổng, bằng không thì sẽ bị phạt nặng hơn. Đương nhiên mỗi phạm nhân sẽ có khuynh hướng khai ra hành động của kẻ tòng phạm, và người bên kia cũng làm như vậy. Kết quả là cả hai đều bị phạt vì mỗi người đều bị người kia khai báo. Nhưng nếu họ tin tưởng nhau, và cả hai đều không khai ra thì cảnh sát không có bằng chứng để phạt ai cả. Vấn đề là cả hai phạm nhân đều e ngại người kia sẽ không giữ lời và nếu họ không khai ra người kia mà bị người kia khai thì hình phạt sẽ nặng hơn. Vì vậy họ chọn con đường khai báo. Áp dụng ví dụ này vào Công Pháp Quốc Tế, sau đây là ví dụ về hai quốc gia cùng ký kết hiệp định không xây dựng lò nguyên tử. Trường hợp 1, việc xây dựng lò nguyên tử rất dễ dàng và ít tốn kém. Nếu cả hai tuân thủ thì được lợi 5, nhưng nếu một quốc gia tuân thủ trong khi quốc gia bên kia vi phạm thì quốc gia tuân thủ chỉ được 2 và bên vi phạm được 6, và nếu cả hai vi phạm thì cả hai được 3. Trong trường hợp 2, khi việc xây dựng lò nguyên tử rất khó khăn và tốn kém nhiều, nếu cả hai tuân thủ thì được lợi 10, nhưng nếu một quốc gia tuân thủ trong khi quốc gia bên kia vi phạm thì quốc gia tuân thủ chỉ được 6 và bên vi phạm được 8, và nếu cả hai vi phạm thì cả hai được 4. Trong cả hai trường hợp trong ví dụ này Vấn nạn phạm nhân vẫn dùng để lý giải, nhưng sự khác biệt là “khuynh hướng tuân thủ” trong trường hợp 2 rõ ràng hơn vì vi phạm (xây lò nguyên tử) thì lỗ nhiều hơn lợi.
Áp dụng khái niệm này vào vấn đề Biển Đông, chúng ta thấy rõ Quan Hệ Quốc Tế rất quan trọng. Để có được đồng minh chúng ta phải có được uy tín. Cường quốc chỉ liên minh với chúng ta khi đôi bên cùng có lợi và đôi bên tin tưởng lẫn nhau. Và khi ký kết hiệp định, chúng ta phải nghĩ đến những hoàn cảnh và điều kiện để hiệp định này có “khuynh hướng tuân thủ” ngay trong bản chất. Dĩ nhiên, đây không phải là việc dễ dàng, và việc này càng trở nên khó khăn khi quyền lợi và tự hào dân tộc bị tỗn thương, hoặc thù nghịch dân tộc lên đến cực độ.
Theo Chủ nghĩa Thực tiễn, mỗi quốc gia là một thực thể đơn lẽ và thế giới là một hệ thống hỗn loạn, không luật lệ hoặc thứ tự. Vì vậy, mỗi quốc gia phải tự bảo vệ chính mình trước những đe doạ thôn tính xung quanh. Đây là một hệ thống “mạnh được yếu thua” và địa chính trị được khẳng định bằng quyền lực. Khái niệm “cân bằng quyền lực” cần phải được nhấn mạnh vì đây là chỗ bám víu của các nước yếu khi phải đối phó với sự đe dọa của nước lớn. “Cân bằng quyền lực” cũng quan trọng đối với các nước mạnh khi họ muốn bảo toàn thế lực khi đối mặt với những thế lực xung quanh, hoặc khi quốc gia này muốn giành thế mạnh để vươn lên qua mặt thế lực hiện thời. Theo chủ nghĩa thực tiễn, vai trò của Công pháp quốc tế (CPQT) dường như không hiện hữu mà chỉ có Cân bằng quyền lực mà thôi. Theo lập luận này thì Trung Quốc đang muốn vươn lên thành một sức mạnh mới và Hoa Kỳ thì muốn bảo vệ quyền lực hiện có của mình. Vì vậy Hoa Kỳ sẽ phản ứng hành động của Trung Quốc. Gần đây, tàu thăm dò Impeccable của Hoa Kỳ chạm trán với tàu chiến của Trung Quốc là dấu hiệu cho thấy sự căng thẳng tiềm ẩn trong quan hệ Mỹ – Trung. Tàu thăm dò của Hoa Kỳ đã chạm trán hải quân Trung Quốc trong quá khứ, và gần nhất là năm 2008, nhưng tại sao Hoa Kỳ không lên tiếng. Rõ ràng, sự thay đổi nhân sự trong Nhà Trắng cũng dẫn đến sự thay đổi về phương hướng hành động của quốc gia này. Sự lên tiếng lần này cho thấy Hoa Kỳ và Trung Quốc đang tranh giành ảnh hưởng ở Biển Đông.
Sau thế chiến thứ II, chủ nghĩa thực tiễn bị phai mờ bởi sự ra đời của Chủ nghĩa Định chế vì chủ nghĩa này cho rằng CPQT cũng đóng vai trò khá quan trọng trên trường thế giới. Dù CPQT không thể thay đổi thái độ và hành động của các quốc gia, nhưng nó tạo ra môi trường cho các quốc gia trao đổi và thương lượng. Cũng như chủ nghĩa thực tiễn, chủ nghĩa định chế cho rằng các quốc gia đều phải đương đầu với nhiều đe dọa và thế lực xung quanh, nhưng điểm khác biệt là các quốc gia hành động dựa theo cách họ phỏng đoán về cách phản ứng và hành động của các quốc gia trong cuộc. Vì vậy CPQT là một công cụ rất hữu ích cho các quốc gia để tìm hiểu các quốc gia khác và đi đến quyết định chính xác hơn. Theo lập luận này, TQ sẽ phải thăm dò phản ứng của các cường quốc có quyền lợi về kinh tế lẫn quân sự ở Biển Đông trước khi hành động. Vì Biển Đông liên quan trực tiếp đến quyền lợi về kinh tế, quân sự lẫn chính trị của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nam Hàn và cộng đồng Châu Á, sự phản ứng của các nước này sẽ không dể dàng cho Trung Quốc.
Hành động của Bắc Kinh còn tùy thuộc vào công luận trong và ngoài nước, dựa theo chủ nghiã tự do. Dù cho Trung Quốc không phải là một nước dân chủ để người dân có thể lên tiếng một cách tự do, nhưng đất nước này cũng không thể làm ngơ công luận. Bằng chứng là nhà cầm quyền Trung Quốc đã tìm mọi cách để phát triển kinh tế nhằm xoa dịu công luận về những bất đồng trong xã hội. Trước khi hành động đàn áp Tây Tạng, Bắc Kinh cũng tuyên truyền trên truyền hình và báo chí để được sự ủng hộ của công luận. Những hành động này rõ ràng tuân theo sự phán đoán củ chủ nghĩa tự do. Nhưng không chỉ có công luận trong nước là quan trọng, công luận thế giới càng quan trọng hơn vì nó gắn liền với uy tín và tiếng tăm của mỗi quốc gia. Nhất là trong khuynh hướng kinh tế toàn cầu như hiện nay, uy tín không chỉ là uy tín mà lợi nhuận kinh tế. Một quốc gia thiếu uy tín hoặc mang tiếng hung hăng sẽ mất đi sự tin tưởng cần thiết trong việc hợp tác kinh tế và mất đi những sự giúp đỡ của thế giới trong trường hợp bất ngờ như thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, hay suy sụp kinh tế. Đây là ý nghĩa chính của khái niệm “trả giá bằng uy tín” (reputational cost) điều mà các quốc gia phải cân nhắc trước khi hành động. Đương nhiên, Trung Quốc không thể làm ngơ cái giá phải trả một khi Trung Quốc, vì tranh chấp Biển Đông, phải mất đi nhiều mối quan hệ quốc tế, cũng như “mối làm ăn” và “tình bạn khi hoạn nạn” này. Khác với chủ nghĩa thực tiễn, khi cho rằng thế giới này là vô luật lệ và mỗi quốc gia là một chiến sĩ đơn phương, chủ nghĩa tự do cho rằng CPQT được vun bồi bởi sự quan hệ giữa các quốc gia, và thế giới này là một hệ thống tương quan và tùy thuộc lẫn nhau. Nếu Trung Quốc không quan tâm đến “giá cả của uy tín” thì chính Trung Quốc tự cô lập mình và làm nhẹ đi cán cân quyền lực và ảnh hưởng của mình trên trường thế giới.
Trong khi lý thuyết dựa trên Quyền lợi coi nhẹ vai trò của CPQT, lý thuyết dựa trên Tập quán cho rằng CPQT không những quan trọng mà còn có khả năng thay đổi cục diện thế giới. Chủ nghĩa Cấu trúc (Constructivism) nhấn mạnh quan hệ quốc tế (QHQT) trong vai trò của CPQT. Chủ nghĩa này cho rằng QHQT tạo ra rất nhiều sự ràng buộc cho các quốc gia từ nhiều hướng và nhiều lý do khác nhau, và đây là điều ảnh hưởng rất lớn đến sự phân tích tình hình và phương hướng hành động của họ. Các quốc gia sẽ không biết phải làm gì khi đứng trước “ma trận” với nhiều bất trắc khó lường này, vì vậy cách tốt nhất là họ đi theo bước chân người đi trước, và “bắt chước” cách giải quyết của người đi trước trong trường hợp tương tự. Lắm khi, các quốc gia không nghĩ ra điều họ cần cho đến khi được cộng đồng thế giới nhắc nhở. Ví dụ như trường hợp các lãnh tụ châu Âu, sau thế chiến thứ I, không quan tâm đến thương binh cho đến khi Henri Dunant và Hội đồng chữ thập đỏ thế giới nêu lên tầm quan trọng của vấn đề. Tóm lại, Chủ nghĩa Cấu trúc tin rằng khi các quốc gia “đi chơi với nhau,” họ học hỏi lẫn nhau, hay nói một cách khác, QHQT “dạy” các quốc gia cách giao tiếp và “ảnh hưởng” cách hành xử và quyết định hành động. Lập luận này giúp chúng ta hiểu rằng sức mạnh và họng súng không phải là cách duy nhất để giải quyết vấn đề và chúng ta có thể hy vọng có được một giải pháp hòa bình trong vấn đề Biển Đông. Tình hữu nghị giữa Việt Nam, Trung Quốc và các nước láng giềng sẽ là một phần lớn của chìa khóa thành công.
Với lập luận tương tự, Lý thuyết Công bằng và Chính Danh (Theories of fairness and legitimacy) tin rằng công bằng và chính danh là nhân tố chính của luật pháp. Trong CPQT, sự công bằng được bảo đảm bằng sự đồng thuận của các bên tham gia về sự phân chia về quyền lợi và quá trình phân chia dựa trên lẽ phải. “Quá trình đúng” và “phân chia công bằng” đi đôi với nhau nhưng đòi hỏi căn bản thì hoàn toàn trái ngược. Điều trước cần sự yên ổn không thay đổi, nhưng điều sau thì phải được bảo đảm bởi sự thay đổi. Vì vậy, quá trình cố gắng chu toàn cả hai yếu tố này là một sự dằng co, hoàn chỉnh và tái hoàn chỉnh của luật pháp quốc tế, và chính quá trình này làm cho luật pháp quốc tế mang tính mềm dẻo, cập nhật và thuyết phục khiến cho các quốc gia tự nguyện tuân thủ. Hay nói khác đi, theo lối suy nghĩ của Lý thuyết dựa trên Quy Trình pháp lý (Legal process theories), luật pháp quốc tế ngầm chứa “khuynh hướng tuân thủ” tự nguyện (propensity to comply). Đối với lý thuyết này, CPQT dựa trên quyền lợi, hiệu quả và tập quán. Từ góc độ hiệu quả, các quốc gia sẽ rất ngại vi phạm luật quốc tế. Vì luật quốc tế là kết quả của một quá trình đàm phán và phân chia, và để đi đến đàm phán, mỗi quốc gia phải bỏ ra bao nhiêu công sức để nghiên cứu vấn đề. Quá trình này tốn kém thì giờ, công sức và tiền bạc. Nếu họ không muốn tuân thủ, họ lại phải tính toán lại, tìm hiểu lại, và tốn kém lại một lần nữa xem việc không tuân thủ có hại hay lợi trước khi quyết định hành động. Không có lý do gì các quốc gia tốn hao công lực để rồi không sử dụng. Về phương diện quyền lợi và tập quán, các quốc gia cũng có lợi hơn khi tuân thủ những luật lệ đã ký kết vì trong quá trình tìm hiểu và tính toán, các bên tham gia nhận ra rằng ký kết hiệp định sẽ có lợi hoặc là không còn lựa chọn nào khác. Quá trình đi đến một hiệp định dù mang tính ràng buộc hay không, tự nó đã tạo ra sự ràng buộc “tự nhiên” do sự hiểu biết bản chất của vấn đề.
Tóm lại, Lý thuyết dựa trên Quyền lợi đưa lên một cách nhìn rất ảm đạm về CPQT nhưng cho ta hy vọng về QHQT. Ngược lại, Lý thuyết dựa trên Tập quán lại vẽ nên một viễn cảnh nhiều hy vọng về tiềm năng của CPQT nhưng không hề chối từ tầm quan trọng của QHQT. Từ đó chúng ta có thể rút tỉa một giải pháp cho Việt Nam: đó là sự áp dụng khéo léo và phối hợp tài tình giữa CPQT và QHQT.
Cũng xin nêu lên đây những Cơ quan Công quyền quốc tế mà chúng ta có thể nhờ cậy. Đó là Liên Hiệp Quốc (The United Nations), Liên Hiệp các Quốc gia Đông nam Á (The ASEAN) và các công cụ Công Pháp quốc tế (International Law Instruments) như Tòa án Công lý Quốc tế (International Court of Justice (ICJ), Công ước về Luật Biển (Law of the Sea, (UNCLOS 1982), và Công ước về Hiệp định (The Hague Convention of Treaties).
Đề nghị giải pháp
1. Định nghĩa lại và đóng khung lại vấn đề.
Chúng ta thường nêu lên khẩu hiệu “Hoàng Sa và Trường Sa là của chúng ta.” Khẩu hiệu này ngầm ý Hoàng Sa và Trường Sa là một vấn đề và Biển Đông không là vấn đề. Nhưng đã đến lúc chúng ta cần hiểu rằng Hoàng Sa và Trường Sa là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau, và Biển Đông không những là vấn đề mà còn là một rất quan trọng. Vì vậy, chúng ta phải định nghĩa lại và đóng khung lại vấn đề. Từ một vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa trở thành ba vấn đề: (1) Biển Đông, (2) Hoàng Sa và (3) Trường Sa vì Biển Đông là vấn đề quốc tế và Trung Quốc, Hoàng Sa là giữa Việt Nam và Trung Quốc, và Trường Sa là giữa Trung Quốc và năm nước trong khu vực (Việt Nam, Mã Lai, Brunei, Phi Luật Tân và Đài Loan).
2. Phối hợp nhiều sách lược khác nhau
Để có được QHQT tốt, chúng phải có đoàn kết nội bộ tốt, cộng vào sự hỗ trợ của cơ quan công quyền quốc tế, dựa trên cơ sở công pháp quốc tế sẽ dẫn đến hy vọng của Việt Nam
3. Gìn giữ hòa bình, quan hệ tốt đẹp giữa Trung Quốc và Việt Nam
Chúng ta cần phát triển trao đổi văn hóa và hợp tác nghiên cứu khoa học giữa Việt Nam và Trung Quốc. Từ ngàn năm nay, văn hóa Việt Nam bị ảnh hưởng rất nhiều từ văn hóa Trung Quốc, nhưng chiều ảnh hưởng ngược lại thì dường như không có. Điều này rất bất lợi cho Việt Nam vì theo lập luận của chủ nghĩa tự do, công luận trong và ngoài nước có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định và hành động của các quốc gia. Khi hai dân tộc không hiểu nhau, sự thù nghịch càng trở nên gay gắt. Và sự lấn áp về quân sự của Bắc Kinh càng được công luận ủng hộ. Bất cứ một hành động quân sự nào, thắng hay bại, cũng đều tạo ra mất mát về con người và của cải, nên người dân thường không ủng hộ chiến tranh. Nhưng nếu sự thù nghịch dân tộc lên đến đỉnh điểm, người ta sẽ không ngại mất mát và ủng hộ đến cùng. Vì vậy chúng ta phải cố gắng tạo ra sự thông cảm về văn hóa để tạo một công luận thân thiện với Việt Nam và giảm thiểu sự thù nghịch giữa Hán tộc và Việt tộc.
Việc trao đổi văn hóa theo chiều Việt Nam sang Trung Quốc khó xảy ra trong quá khứ vì Việt Nam là nhược tiểu. Nhưng ngày nay, khoa học hiện đại không phân biệt nước lớn hay nhỏ mà là sở học của mỗi học giả tham gia hội thảo. Tinh thần nghiên cứu khoa học không còn phụ thuộc vào dân tộc mà tính trung thực và chất lượng nghiên cứu. Dù cho chính quyền Trung Quốc không trung thực, vẫn có nhiều khoa học gia Trung Quốc tôn trọng sự trung thực, và đây chính là đối tượng chúng ta cần tìm và cùng tham khảo khoa học một cách chân thành. Tinh thần khoa học sẽ là chiếc cầu nối cho học giả Việt Nam và Trung Quốc cùng nhau trao đổi, học hỏi, và kết tình thân hữu. Đây là chất xúc tác cho một mối quan hệ thật sự tốt đẹp và lành mạnh giữa hai dân tộc Việt và Hán.
4. Gìn giữ hòa bình và quan hệ tốt đẹp với quốc tế
Chúng ta phải Gìn giữ hòa bình và quan hệ tốt đẹp với bốn nước tranh chấp để không đơn thân độc mã đối diện với Trung Quốc. Khi chúng ta nói “Trường Sa là của Việt Nam,” lập tức chúng ta tự cô lập mình và đẩy Mã Lai, Phi Luật Tân, Brunei, và Đài Loan về phía Trung Quốc vì chắc chắn bốn nước này không đồng ý tất cả Trường Sa là của Việt Nam. Tương tự như vậy, ASEAN cũng sẽ không ủng hộ Việt Nam, nếu chúng ta cứ khư khư dành tất cả Trường Sa về phần mình. Khối ASEAN rất quan ngại việc Biển Đông lọt vào tay Trung Quốc vì đây là “ao nhà” và “bến đò” của họ để đi lại và buôn bán. Thế nên chúng ta phải dựa vào sự quan ngại này để sát cánh cùng ASEAN mà đối diện Trung Quốc. Thêm vào đó Biển Đông cũng là nơi mà quyền lợi của Hoa Kỳ, Nhật Bản và Nam Hàn bị ảnh hưởng trực tiếp, do đó chúng ta phải có quan hệ tốt đẹp với những cường quốc này. Khi họ phản ứng hành động của Trung Quốc để bảo vệ cho quyền lợi của họ, chúng ta cũng được phần lợi trong đó. Cuối cùng, sự gắn bó không thể thiếu giữa Campuchia, Lào & Việt Nam cần phải luôn luôn giữ gìn. Trung Quốc luôn tranh giành ảnh hưởng với hai nước này nên chúng ta không thể sao lãng. Campuchia và Lào là “hàng xóm mà cũng như vườn nhà”, nếu không xanh tươi thì nhà của chúng ta sẽ không thoáng mát. Trung Quốc mà khống chế hai nước này hoặc Biển Đông thì chúng ta không thể nào giữ yên bờ cõi được nữa. Mỡ rộng quan hệ với Campuchia và Lào để phát triển về kinh tế vì đây là thị trường cho Việt Nam. Bên cạnh đó, hai quốc gia này có nền văn hóa rất lâu đời và phong phú, nên sự giao thoa văn hóa với họ sẽ giúp làm giảm ảnh hưởng nặng nề từ sự xâm nhập của văn hóa Trung Quốc vào Việt Nam.
Nhìn vào vấn đề Biển Đông và sức mạnh của Trung Quốc, tôi tự hỏi: chân lý có thật nằm trong tay kẻ mạnh hay không? Để kết luận, tôi xin nhắc đến câu đồng giao của ông bà ta truyền lại “Nực cười châu chấu đá xe, tưởng rằng chấu ngã ai ngờ xe nghiêng” và người Hán cũng có câu “Mãnh hổ nan địch quần hồ”. Và xin nhớ rằng sức mạnh công phá dữ dội nhất của vủ khí hiện đại nằm trong phần tử bé nhỏ nhất, đó là hạt nguyên tử. Việt Nam sẽ dựa được sức mạnh của “quần hồ” và sẽ tìm được sức mạnh “nguyên tử” này. Vấn đề là Việt Nam có QUYẾT CHÍ hay không?
Ailien T. Tran, Fulbright Fellow 2009, Master in Public Policy, Bachelor of Art in Political Science, Bachelor of Science in Business Administration, University of California, Berkeley
Tài liệu tham khảo
Barbara Koremores et al., “The Rational Design of International Institutions”, p. 55 in International Organization 761, 768(2001)
Finnemore, Martha, “National Interests in International Society,” Cornell University Press, (1996)
Frank, Thomas M., “Fairness in International Law and Institutions.” in Hathaway, Oona A. & Koh, Harold Hongju,Foundations of International Law and Politics, Foundation Press, New York, New York, 2005, p. 152 – 154.
Guzman, Andrew, “A Compliance Based Theory of International Law,” 90 California Law Review 1823 (2002) inMorgenthau, H. J., “Politics Among Nations,” in Hathaway, Oona A. & Koh, Harold Hongju, Foundations of International Law and Politics, Foundation Press, New York, New York, 2005, p. 59 – 61, 62, 72, 74.
Hathaway, Oona A. & Koh, Harold Hongju, Foundations of International Law and Politics, Foundation Press, New York, New York, 2005
Kazenstein, Peter J., Keohane, Robert O., and Krasner, Stephen D. “International Organization and the Study of World Politics.” in Hathaway, Oona A. & Koh, Harold Hongju, Foundations of International Law and Politics, Foundation Press, New York, New York, 2005, p. 4-6.
Moravcsik, Andrew, “Taking Preferences Seriously: A Liberal Theory of International Politics”, 51 International Organization 513 (1997), p. 80-81, 82..
Morgenthau, H. J., “Politics Among Nations,” in Hathaway, Oona A. & Koh, Harold Hongju, Foundations of International Law and Politics, Foundation Press, New York, New York, 2005, p. 32 – 36, 39.
Robert O. Keohane & Joseph S. Nye, Power and Interdependence 19 (1977)
Robert, Keohane O. Jr., “Institutional Theory and the Realist Challenge After the Cold War,” Neorealism & Neoliberalism 269 (David A. Balwin ed., 1983) in Morgenthau, H. J., “Politics Among Nations,” in Hathaway, Oona A. & Koh, Harold Hongju, Foundations of International Law and Politics, Foundation Press, New York, New York, 2005, p. 55.
Slaughter, Anne-Marie, “A Liberal Theory of International Law,” 94 American Society of International Law Proceeding 240 (2000)
Stephen D. Krasner, “Structural Causes and Regime Consequences: Regime as Intervening Variables”, in International Regimes 1 & 2 (Stephen D. Krasner ed., 1983)
Waltz, Kenneth, “Theory of International Politics”, in Hathaway, Oona A. & Koh, Harold Hongju, Foundations of International Law and Politics, Foundation Press, New York, New York, 2005, p. 43.
MỸ VÀ TRUNG QUỐC ĐỐI MẶT VỚI NHỮNG THÁCH THỨC CHUNG
TTXVN (Hong Kong 12/11)
Theo Thời báo châu Á trực tuyến, một tài liệu đang lưu hành trong thời gian gần đây trên mạng Internet Trung Quốc lập luận rằng có 8 lĩnh vực cần phải cải cách khẩn cấp.
Đó là một tài liệu dài và chi tiết, song nói tóm lại tài liệu này tuyên bố rằng tại phiên họp toàn thể lần thứ 3 của Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa 18 (Hội nghị Trung ương 3 khóa 18), các nhà lãnh đạo nước này dự định sẽ hạn chế quyền lực và việc tiếp cận tài chính đối với các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước từng có rất nhiều quyền lực và vẫn thiếu hiệu quả, đồng thời tạo ra một thị trường và môi trường tài chính tốt hơn cho những doanh nghiệp tư nhân hoạt động hiệu quả nhưng vẫn còn giữ vai trò hạn chế, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, những doanh nghiệp đã góp phần chèo lái sự phát triển của Trung Quốc từ nhiều thập kỷ qua.
Điều này chắc chắn hoàn toàn phù hợp với những cải cách đã được phê chuẩn trong quá khứ, và về mặt lý thuyết đó là tính kế thừa. Cách đây một thập kỷ, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thay đổi Hiến pháp, trao cho các doanh nghiệp tư nhân vị thế giống như các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước. Trên thực tế, đây là sự khởi đầu của một cuộc cách mạng toàn diện sẽ kiểm tra ảnh hưởng của các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, vốn là một phần không thể thiếu trong cơ cấu kinh tế và tinh hoa quyền lực của đảng Cộng sản Trung Quốc.
Thông qua các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, giới lãnh đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc ban phát các đặc ân và tiền bạc, thúc đẩy các chương trình nghị sự của họ và cuối cùng thu hút các nguồn tài nguyên của đất nước bằng cách tập trung quyền lực thực sự và một lượng lớn tiền mặt vào tay một thiểu số người. Quá trình này không được thực hiện bởi một nghiên cứu về hiệu quả kinh tế, mà bởi một nỗ lực nhằm vét hết hàng hóa trên thị trường và tạo ra những sự độc quyền thực sự. Điều đó đã hạn chế quá trình này và hút hết tài nguyên của các doanh nghiệp tư nhân.
Cuộc cải cách này nên tạo ra một môi trường kinh tế lâu dài tốt hơn, điều có thể duy trì sự tăng trưởng bền vững của Trung Quốc trong 3 hoặc 4 thập kỷ tới và sẽ thúc đẩy môi trường thuận lợi cho chiến dịch đô thị hóa đã được công bố hồi đầu năm nay rằng sẽ đưa 400 triệu người tới sống ở các thành phố vừa và nhỏ trong thập kỷ tới.
Tất cả những việc này là những kế hoạch dài hạn sẽ được thực hiện với sự phản đối lớn trong một thời gian ngắn. Những ông chủ thực sự của các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước sẽ thấy tiền bạc và quyền lực của họ bị giảm đi, và do đó họ đang phản đối các cuộc cải cách bằng tất cả sức mạnh và những khoản tiền tích lũy khổng lồ của họ. Sự phản đối này mạnh mẽ và bền bỉ đến nỗi Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cần phải thâu tóm quyền lực vào tay mình bằng cách tước đoạt những quyền lực đó khỏi tay các quan chức thấp hơn – và điều này có thể là một lý do cho chiến dịch phê và tự phê được phát trên truyền hình gần đây ở cấp tỉnh và các cấp thấp hơn.
Các chính quyền địa phương, nằm ngoài ánh mắt xoi mói của chính quyền trung ương, trên thực tế là những khu vực mà các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước hoạt động thuận lợi nhất, đang vẽ ra những khoản vay khổng lồ với sự đồng lõa từ những chính quyền các tỉnh và thành phố. Bằng cách này, các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước và các địa phương đã tạo ra những khoản nợ khổng lồ trên thực tế nhưng không được thể hiện chính thức trong ngân sách nhà nước. Có những ước tính khác nhau về các khoản nợ này, song chúng có thể cao hơn 60% GDP của Trung Quốc, một con số đã trở thành ngưỡng xác định hiệu quả kinh tế của một quốc gia.
Chắc chắn rằng nếu vấn về này không được giải quyết khẩn cấp thì trong vòng 10 năm Trung Quốc sẽ biến thành một Liên Xô kỷ nguyên Brezhnev thứ hai và điều đó sẽ là nguyên nhân khiến đất nước này sụp đổ, giống như điều đã xẩy ra với Liên Xô. Tuy nhiên những vấn đề này sẽ chưa xẩy ra ngay cho dù sức ép đối với các danh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước đang được cảm nhận ngay ở thời điểm này.
Và rồi một chính phủ ít trách nhiệm hơn có thể quyết định để có ít những rắc rối hơn – đáp ứng các yêu cầu của các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước và để lại nhiều vấn đề cho thế hệ các nhà lãnh đạo kế cận, những người sẽ bị cho là có tội vì đã gây ra sự sụp đổ của Trung Quốc. Đây là cách được cựu ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc kiêm Bí thư Thành ủy Trùng Khánh Bạc Hy Lai, hiện đã thất thế, tán thành. Ông Bạc Hy Lai ủng hộ các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước hơn các doanh nghiệp tư nhân. Sự sụp đổ vị thế chính trị của ông ta, bằng cách nào đó đã dẫn tới một thỏa hiệp chính trị mới: Phe này biến mất và những người từng ủng hộ ông phải được đưa trở lại với phần còn lại của đảng Cộng sản Trung Quốc.
Nhìn từ góc độ của Trung Quốc, Mỹ cũng đang phải đương đầu với những thách thức ngắn và dài hạn tương tự như Trung Quốc, về dài hạn, Mỹ sở hữu cơ sở hạ tầng yếu kém, và trong vấn đề này, đảng viên ôn hòa của đảng Cộng hòa Bill Mundell từ lâu đã đề xuất tư nhân hóa từng phần trong tài sản mà nhà nước quản lý chưa hiệu quả nhằm hỗ trợ tài chính cho một kế hoạch cơ sở hạ tầng mới đi vào hoạt động, điều này cũng có thể giúp chi trả tốt hơn cho các trường học và dịch vụ y tế.
Tuy nhiên, lời kêu gọi của ông Bill Mundell không được mọi người lưu tâm. Hai đảng viên ôn hòa của đảng Cộng hòa, Henry Kressel và David p. Goldman, nhận thấy sự đổi mới của Mỹ, nhân tố đóng vai trò quan trọng đối với an ninh và sự thịnh vượng của quốc gia, không được tốt. Đổi mới phụ thuộc vào khả năng tiếp cận của các doanh nghiệp với nguồn đầu tư, song các nhà chức trách, dựa trên kinh nghiệm của Trung Quốc, tin rằng chính sách công có thể sẽ có ích. Nhưng những quan ngại này cũng không xuất hiện trong cuộc tranh luận công khai.
Ở một mức độ khác, Tổng thống Mỹ Barack Obama đang thúc đẩy cải cách y tế, vấn đề có thể thúc đẩy sự cải cách lớn tại Mỹ, bởi về cơ bản, mọi người sẽ được tiếp cận tốt hơn với dịch vụ y tế, qua đó nâng cao chất lượng cuộc sống cơ bản của nhiều người. Hiện nay có thể không phải là thời điểm thích hợp cho công cuộc cải cách này. Nó làm tăng chi tiêu công vào thời điểm mà Mỹ cần trả hết các khoản nợ của mình và có thể có nhiều sự phản đối chính đảng khác, trong đó có cả việc đổ lỗi cho tổng thống vì không tạo được sự đồng thuận.
Tuy nhiên, tình trạng tê liệt chính trị xẩy ra do sự phản đối này đang tạo ra một bầu không khí có thể dập tắt những thay đổi dài hạn cần thiết khác ở Mỹ. Nếu tổng thống kế tiếp của Mỹ là một đảng viên đảng Cộng hòa thì các đảng viên đảng Dân chủ cũng có thể phản đối mạnh mẽ bất kỳ cải cách dài hạn nào mà vị tổng thống đó đưa ra.
Nhìn từ góc độ của Trung Quốc, và do chắc chắn sẽ có sai lệch do không nắm được nhiều chi tiết, phe đối lập với ông Obama hiện nay đã làm xói mòn mọi nỗ lực thực hiện những thay đổi dài hạn do những vấn đề quan tâm trong ngắn hạn – giành thắng lợi trong cuộc bầu cử tiếp theo, giành chiến thắng trong cuộc tranh luận và qua đó đạt được những mục tiêu quốc gia và địa phương – có nhiều giá trị hơn nhũng vấn đề dài hạn gây ra sự suy yếu tổng thể của Mỹ.
Tất nhiên, có nhiều lý do để nói rằng cuộc cải cách này đang được xử lý không hiệu quả, và cần làm một số điều tốt hơn. Tuy nhiên, nhìn từ bên ngoài, sự phản đối này nghe có vẻ không thỏa đáng bởi như người Italy thường nói rằng ‘“tốt hơn’ là kẻ thù tồi tệ nhất của ‘tốt’”.
Trên thực tế, dường như có ý kiến từ phía Trung Quốc cho rằng nền dân chủ Mỹ, được thực hiện bởi nỗi ám ảnh với những sự nổi tiếng trong tương lai và sự cạnh tranh luẩn quẩn của những chiến dịch bầu cử liên tục, khiến nước này không thể giải quyết được những vấn đề về cơ cấu – và sự yếu kém này thậm chí có thể khiến Mỹ sụp đổ.
Nếu Trung Quốc có nền dân chủ kiểu Mỹ ngay hiện nay thì các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước sẽ gây cản trở cho các cuộc cải cách và do đó khiến đất nước rơi vào tình trạng trì trệ lâu dài. Kết quả này có thể có một vài điều đáng khen ngợi – nền dân chủ tiến bộ ở Mỹ và ở một số quốc gia châu Âu có thể vấp phải một bức tường – nhưng nó không thể chỉ ra được nước Mỹ dân chủ và châu Âu đã làm cách nào để tạo ra những đổi mới lớn lao trong suốt hai thế kỷ qua.
Có lẽ có một vài vấn đề về cơ cấu trong việc quản lý một hệ thống dân chủ – được hình thành trong một thời kỳ không có truyền hình hay Internet cùng với dân số nhỏ hơn nhiều và ít biến động – giờ đây mọi thứ đang thay đổi với tốc độ nhanh hơn nhiều trên một quy mô lớn hơn và có sự liên kết với nhau. Tuy nhiên cũng có những vấn đề mà đảng Cộng sản Trung Quốc duy vật sẽ gọi là “tâm linh”: sự suy tàn của một loạt những giá trị chung liên kết những người thuộc tầng lớp tinh hoa và quốc gia.
Sự phản đối của đảng Cộng hòa chiếm, ưu thế ở Mỹ dường như là để đánh giá tính chính xác và đúng đắn của sự cần thiết phải tìm kiếm một sự thỏa hiệp với tổng thống để có thể cứu vãn sự đoàn kết của đất nước và đảm bảo một con đường cho cải cách dài hạn. Ở đây, Trung Quốc nhận thức được sự đảo lộn đạo đức và xung quanh vụ Bạc Hy Lai đã có sự rạn nứt đáng kể trong các giá trị chung. Đặc biệt vấn đề rạn nứt này đang được giải quyết bằng cách nỗ lực tập trung những người từng ủng hộ Bạc Hy Lai trước đây, như đảng đã làm vào năm 1989 với những người từng ủng hộ phong trào Thiên An Môn và vào năm 1999 với những cựu tín đồ của phong trào Pháp Luân Công.
Song ngược lại, Mỹ dường như không nhận thức được sự đổ vỡ trong hệ thống giá trị được thiết lập và thậm chí không biết về sự nguy hiểm dài hạn do hệ thống này gây ra. Các thành viên của đảng Dân chủ làm việc vì họ sử dụng sự thỏa hiệp chính trị để giải quyết sự khác biệt về lợi ích và nguyên tắc. Tuy nhiên, nếu không đi đến được thỏa hiệp thì một quốc gia sẽ rơi vào tình trạng bế tắc – hoặc tệ hơn là một cuộc nội chiến. Và những thỏa hiệp này được tìm thấy dựa trên những giá trị chung.
Vậy hiện nay, điều gì đang diễn ra tại Mỹ? Liệu đó có phải là Tea Party – một nhóm có tư tưởng cực đoan – đang tìm cách áp đặt ý chí của mình lên đa số người Mỹ? Đảng Cộng hòa đã lầm lẫn rồi sao? Hay còn điều gì khác? Điều gì khó khăn đến nỗi phần còn lại của đất nước không hiểu về Tea Party? Tại sao những người của Tea Party bị một số đồng nghiệp Mỹ coi là gần giống như Taliban của Afghanistan? Tại sao Mỹ không thể sửa chữa vết nứt này, vết nứt vốn đang phát triển trong lương tâm và trong hệ thống giá trị của họ?
Tất nhiên, Mỹ hiện đang quá bận rộn với những vấn đề của họ để có thể lo lắng đến việc giải thích những điều đó với phần còn lại của thế giới, nhưng sự lúng túng ngày càng tăng ở Trung Quốc và trên thế giới về những gì đang xẩy ra ở Washington và về những khó khăn trong việc tìm hiểu cuộc chiến sẽ kết thúc như thế nào, bên cạnh các vấn đề mức trần nợ công hiện tại, đang làm sụt giảm lòng tin lâu dài đối với Mỹ và do đó quyền lực mềm của nước này là nền tảng của quyền lực rắn.
Nếu quyền lực mềm này bị rung chuyển thì các nước khác sẽ ganh đua để thay thế nó và cố gắng đơn giản này có thể phá vỡ trật tự thế giới hiện tại với hậu quả trung hạn và dài hạn đối với nước Mỹ. Đây là điều không tốt cho cả Mỹ lẫn Trung Quốc, quốc gia cần có một môi trường rất hòa bình và ổn định để thực hiện sự phát triển của họ trong những thập kỷ tới.
* * *
TTXVN (New York 11/11)
Sự phụ thuộc ngày càng tăng của Trung Quốc vào các thị trường năng lượng nước ngoài có thể buộc cường quốc này phải xem xét lại chính sách “không can thiệp” mang tính lịch sử của mình, ít nhất là ở các khu vực sản xuất nguồn năng lượng chính. Ngày 9/10, Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ công bố dữ liệu cho thấy Trung Quốc đã chính thức vượt Mỹ trở thành nhà nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới. Theo mạng tin Stratfor, mặc dù thời điểm chính xác Mỹ “trao cờ” cho Trung Quốc không quan trọng nhưng số liệu thống kê này nhấn mạnh một xu hướng ngày tăng thập kỷ tới: Mỹ ngày càng giảm sự phụ thuộc vào nguồn dầu mỏ toàn cầu trong khi Trung Quốc thì ngược lại.
Tiềm ẩn trong sự phát triển kinh tế thần kỳ của Trung Quốc là tăng trưởng nhanh về nhu cầu năng lượng. Trung Quốc hiện là quốc gia tiêu thụ than lớn nhất thế giới và đang trong xu hướng vượt Mỹ trở thành quốc gia tiêu thụ dầu mỏ lớn nhất. Tiêu thụ dầu mỏ của Trung Quốc đã tăng từ 2,3 triệu thùng/ngày năm 1990 lên 4,7 triệu thùng/ngày năm 2000 và hiện đang hướng tới mức 11 triệu thùng/ngày. Mỹ hiện tiêu thụ khoảng 15 triệu thùng/ngày.
Dù tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đang chậm lại và sẽ khó có thể trở lại mức tăng hơn 10% như trước đây, nhu cầu dầu mỏ sẽ vẫn trong xu hướng tăng. Phần lớn dân số Trung Quốc đang bước vào giai đoạn phát triển kinh tế mà họ có khả năng mua ôtô; khi các nền kinh tế đạt được mức GDP trên đầu người từ 10.000 đến 20.000 USD, tỷ lệ xe hơi so với dân số thường tăng mạnh. Dù tỷ lệ xe hơi so với dân số ở Trung Quốc không thể đạt ngưỡng như ở Mỹ nhưng với quy mô dân số lớn của Trung Quốc đồng nghĩa với việc dù chỉ một thay đổi nhỏ trong tỷ lệ sở hữu xe hơi sẽ làm thay đổi lớn nhu cầu nhiên liệu. Điều này khẳng định rằng việc nhập khẩu dầu mỏ của Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng trong thập kỷ tới, củng cố vị trí là quốc gia nhập khẩu dầu mỏ lớn nhất của cường quốc này.
Ý nghĩa đối với Trung Quốc
Xu thế này có một vài ý nghĩa đối với Bắc Kinh. Ba tập đoàn dầu mỏ quốc gia chính của Bắc Kinh, Tổng công ty dầu khí và hoá chất Trung Quốc (Sinopec), Tổng công ty dầu khí hải dương Trung Quốc (CNOOC) và Công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn dầu khí Trung Quốc (PetroChina) sẽ tiến tục chính sách quyết liệt mở rộng quy mô tiếp cận toàn cầu. Sự chú ý đặc biệt sẽ tập trung ở các quốc gia mà mức sản xuất dầu có tiềm năng tăng như Iraq, Brazil và Venezuela bất chấp sự phức tạp chính trị, vận chuyển xung quanh việc phát triển năng lượng ở các quốc gia này.
Mặc dù một phần của sự mở rộng này nhằm mục đích bảo đảm nguồn cung dầu mỏ cho Trung Quốc, các công ty này cũng tìm cách giảm thiểu rủi ro và muốn trở thành các tập đoàn dầu khí toàn câu. Điều này có nghĩa rằng các công ty sẽ tiếp tục mở rộng hoạt động sang các nước như Mỹ và Canada. Lấy ví dụ, CNOOC và Sinopec đã đầu tư vài tỷ USD vào các mỏ dầu khí đá phiến. Những khoản đầu tư này cũng nhằm nâng cao trình độ công nghệ cho các tập đoàn dầu khí Trung Quốc.
Bên cạnh đó, với sự tăng trưởng kinh tế nội địa Trung Quốc chậm lại và quốc gia này đang trải qua giai đoạn chuyển đổi từ mô hình kinh tế hướng tới xuất khẩu sang mô hình phụ thuộc nhiều hơn vào tiêu thụ nội địa, sẽ có sự suy giảm về cán cân thương mại. Tăng nhập khẩu dầu và các loại hình năng lượng khác sẽ chỉ đẩy nhanh việc xóa bỏ cán cân thương mại tích cực hiện nay của Trung Quốc dù sự thay đổi này đã diễn ra trong vài năm. Nó cũng làm gia tăng rủi ro của Bắc Kinh với các nhân tố bên ngoài, không chỉ là các vấn đề kinh tế mà còn là rủi ro về nguồn cung bằng đường biển. Bắc Kinh đã nỗ lực làm giảm thiểu các rủi ro này bằng việc tăng nhập khẩu bằng đường bộ từ Nga và Trung Á, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là bảo đảm an toàn cho giao thông đường biển vai trò từ lâu đã do Mỹ đảm nhiệm.
Sự phụ thuộc vào năng lượng của Mỹ suy giảm
Khi sự tiêu thụ gia tăng đưa Trung Quốc trở thành nước nhập khẩu dầu lớn nhất, Mỹ lại đang giảm sự phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu dầu khí từ nước ngoài. Ngành công nghiệp dầu mỏ của Mỹ đã trải qua bước tiến công nghệ vượt bậc giúp việc sản xuất dầu của nước này tăng gần 40% trong 3 năm qua, đưa sản xuất nội địa lên mức cao chưa từng thấy kể từ trước Chiến tranh vùng Vịnh thứ Nhất. Dù đây không phải là lý do duy nhất khiến Mỹ giảm mạnh nhập khẩu dầu mỏ, Canada cũng đã tăng mạnh việc sản xuất dầu của mình và đang xuất khẩu sang Mỹ bằng đường bộ Kết quả là Mỹ ngày càng giảm nhập khẩu dầu mỏ từ bên ngoài bằng đường biển. Xu hướng này dự kiến sẽ tiếp tục diễn ra trong thời gian còn lại của thập kỷ này khi Mỹ và Canada tiếp tục tăng cường sản xuất dầu.
Tuy nhiên, việc sản xuất dầu của cả Mỹ và Canada không thể đạt mức đủ cao để Washington không còn phải nhập khẩu dầu từ các nước khác. Bên cạnh đó, Mỹ hội nhập lớn vào dòng chẩy thương mại và thị trường tài chính toàn cầu. Chính vì thế, Mỹ sẽ vẫn rất quan tâm đến thị trường dầu mỏ quốc tế cũng như việc bảo đảm an toàn tuyến giao thông hàng hải không chỉ cho việc vận chuyển năng lượng mà còn các loại hàng hóa khác. Lấy ví dụ, ngay cả khi nếu nhập khẩu năng lượng của Mỹ tư Trung Đông giảm, bất kỳ sự suy giảm mạnh nguồn cung nào từ Trung Đông sẽ dẫn tới các hậu quả kinh tế nghiêm trọng ở Trung Quốc và các quốc gia châu Á khác, cuối cùng sẽ làm ảnh hưởng đến kinh tế Mỹ.
Ngoài ra Mỹ sẽ tiếp tục nhập khẩu dầu thô Trung Đông vì những lý do cơ cấu. Ví dụ, bang California và các bang duyên hải miền Tây không kết nối với phần còn lại của lục địa bằng đường ống và việc xây dựng đường ống dẫn dầu tới các khu vực này khó khăn. Chính vì vậy các nhà máy lọc dầu tại đây sẽ tiếp tục tìm kiếm nguồn dầu thô từ Trung Đông ngay cả khi Mỹ tiếp tục tăng sản xuất dầu trong nước.
Ảnh hưởng của OPEC đang suy giảm
Việc tăng sản xuất năng lượng của Mỹ một phần được cho là do giá dầu mỏ tăng cao. Đây không phải là lần đầu tiên từ giá dầu cao dẫn tới bước đột phá về công nghệ ở các nước phát triển, mở ra nguồn sản xuất dầu vô tận. Trong cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1970, giá dầu cao đã khiến các nhà sản xuất dầu mỏ phát triển sang các khu vực đắt đỏ hơn như vịnh Mexico, bang Alaska và Biển Bắc, dẫn tới sự tăng trưởng bền vững nguồn cung dầu của các thành viên không thuộc OPEC trong suốt những năm 1980. Kết quả là giá dầu mỏ đã giảm mạnh và giữ ở mức thấp trong suốt thời kỳ bất ổn địa chính trị ở Trung Đông, thời điểm đã xẩy ra cuộc chiến tranh giữa Iraq và Iran. Saudi Arabia và các nhà sản xuất dầu OPEC khác ban đầu đã cố gắng hạn chế sản xuất để tăng giá nhưng họ đã không thể gây tác động đáng kể đến giá dầu mỏ vì việc sản xuất của các thành viên không thuộc OPEC tăng quá nhanh. Điều này cuối cùng buộc Saudi Arabia phải tăng sản xuất trở lại để giành lại thị phần, giúp giữ mức giá dầu tương đối thấp cho tới những năm 2000 khi một xu hướng mới nổi lên, nhu cầu tiêu thụ dầu mỏ tăng mạnh từ các nền kinh tế mới nổi.
Ngày nay, việc tăng sản xuất dầu ở Mỹ, Canada, Nga và Brazil đã làm suy giảm khả năng của OPEC trong việc tác động đến giá thành. Tuy nhiên, trái ngược với nhũng ví dụ lịch sử về sản xuất tăng, nhu cầu ngày càng tăng ở Trung Quốc, Ấn Độ và các quốc gia mới nổi khác tới nay đã làm giảm bớt ảnh hưởng từ việc sản xuất dầu tăng của các thành viên không thuộc OPEC vì vậy, việc sản xuất phải tiếp tục tăng trưởng để giữ giá dầu ở mức hiện nay.
Điều này quan trọng đối với nhiều quốc gia Trung Đông vì khả năng khống chế sản lượng dầu mỏ đang bị đặt câu hỏi. Các quốc gia như Saudi Arabia, Oman và những nhà sản xuất dầu mỏ Trung Đông khác không chỉ tăng tiêu thụ nội địa của mình mà còn nhằm đối phó với mùa Xuân Arập 2011, các nước này phụ thuộc vào tăng chi tiêu phúc lợi nhờ xuất dầu để “tránh bão”. Các quốc gia này cần giữ giá dầu cao như hiện nay để duy trì nguồn thu ngân sách của mình, thậm chí họ còn cần giá dầu tiếp tục tăng cao hơn nữa.
Nguồn: THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Tư, ngày 13/11/2013
Sự phụ thuộc ngày càng tăng của Trung Quốc vào các thị trường năng lượng nước ngoài cũng sẽ đòi hỏi Trung Quốc ngày càng quan tâm đến những diễn tiến chính trị ở Trung Đông và các khu vực sản xuất năng lượng khác. Chính sách trước đây của Bắc Kinh trong các tranh chấp này là không can thiệp nhưng với sự phụ thuộc ngày càng tăng, chính sách này có thể sẽ trở nên lỗi thời. Mỹ sẽ vẫn rất quan tâm đến thị trường năng lượng toàn cầu và các sự kiện địa chính trị có thể ảnh hưởng đến các thị trường này, nhưng việc giảm phụ thuộc vào nhập khẩu dầu mở từ bên ngoài sẽ giúp Washington rảnh tay hơn trong thực thi chính sách đối ngoại của mình tại các khu vực sản xuất dầu khí chiến lược.
Nguồn: THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Tư, ngày 13/11/2013
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)